Đạo Phật Ngày Nay

Bản Sanh: truyện 371 tới 380 / Jataka Tales: Stories 371–380

Một vị sư già có một chú tiểu giúp việc. Khi chú tiểu qua đời, vị sư già đau buồn khôn xiết. Đức Phật bèn kể câu chuyện về một vị khổ hạnh nuôi một chú nai con và lời khuyên vị này nhận được từ Vua Trời Sakka khi chú nai chết.

Nguyên bản: Pali

Anh dịch: H.T. Francis, R.A. NeilĀnandajoti Bhikkhu

Việt dịch và rút ngắn: Nguyên Giác

J371. Dighitikosala Jātaka -- Nuôi dưỡng soán giận chỉ gây ra đau khổ, và từ bi chính là chìa khóa để chấm dứt hận thù.

Tóm tắt: Hai nhóm nhà sư tranh cãi về một vấn đề giới luật, và mặc dù bị Đức Phật khiển trách, họ vẫn tiếp tục tranh cãi. Đức Phật sau đó kể câu chuyện về một hoàng tử có cha mẹ bị một vị vua ngoại bang giết hại. Sau đó, khi hoàng tử có cơ hội giết kẻ thù, chàng nhớ lại lời dạy của cha mình và quyết định tha thứ cho kẻ giết cha mình.

.

Khi Đức Phật còn ở tại vườn Ghosita gần thành Kosambi, có nhiều cuộc cãi vã giữa các vị sư. Cuộc cãi vã này bắt đầu từ việc hai vị sư sống cùng một tòa nhà. Một vị là chuyên gia về Luật (Vinaya), và vị kia là chuyên gia về Kinh (Sutta).

Một hôm, vị học giả Kinh đi vào nhà vệ sinh và để lại một bình nước nhỏ, là nước dùng để súc miệng. Sau đó, vị học giả Luật đi vào, thấy nước, nên đi ra hỏi: "Ông có để lại nước này không?"

Học giả Kinh nói: "Vâng."

Học giả Luật nói: "Ông không biết điều này là sai sao?"

Học giả Kinh trả lời: "Ông không biết."

Vị học giả Luật nói: "Điều này là sai."

Vị học giả Kinh nói: "Vậy thì tôi sẽ sám hối."

Nhưng vị học giả Luật lúc này nói: "Nếu ông làm mà không biết, thì đó không phải là một tội lỗi thực sự."

Vị sư Kinh lúc đó nghĩ: "Vậy là không sai", và không còn thấy hành động đó là sai trái nữa.

Vị học giả Luật nói với các đệ tử: "Vị học giả Kinh này đã phạm sai lầm, nhưng ông ta không nghĩ rằng nó sai."

Các đệ tử của ông ta lặp lại điều này với các đệ tử của vị học giả Kinh, nói: "Thầy của các anh không nhận ra lỗi của mình."

Họ nói với vị thầy của mình, và vị thầy nói: "Nhưng trước đó ông ấy nói rằng điều đó không sai, và bây giờ ông ấy lại nói rằng nó sai. Ông ấy đang nói dối."

Khi thông điệp này được gửi lại, nhóm kia nói: "Thầy của anh nói dối." Chẳng mấy chốc, cả hai nhóm đều nổi giận.

Sau đó, vị học giả Luật chính thức đình chỉ, cấm cửa vị học giả Kinh ra khỏi cộng đồng, nói rằng ông ta không chịu thừa nhận lỗi lầm của mình. Sau đó, ngay cả những cư sĩ ủng hộ các nhà sư cũng chia rẽ. Các ni cô cũng chia rẽ. Ngay cả các vị thần và chư thiên địa phương cũng chia phe. Tiếng ồn ào của cuộc cãi vã thậm chí đã lên đến tận trời cao.

Một vị sư đến gặp Đức Phật và giải thích cả hai phía:

—Một nhóm nói: "Việc đình chỉ là đúng."

—Người kia nói, “Việc đình chỉ là sai.”

—Một số nhà sư vẫn tiếp tục ủng hộ nhà sư bị đình chỉ mặc dù họ đã được khuyên không nên làm vậy.

Đức Phật nói, “Trong Tăng đoàn quả thật có sự chia rẽ.” Ngài đến gặp họ và giải thích về nỗi khổ của việc trừng phạt sai trái, và nỗi khổ của việc che giấu lỗi lầm. Nhưng họ vẫn không ngừng cãi vã.

Sau đó, khi họ tiếp tục họp hành nhưng vẫn tranh cãi, Ngài đặt ra một quy định: họ phải ngồi xen kẽ, mỗi bên một người, để giảm xung đột. Họ vẫn tranh cãi. Cuối cùng, Ngài đến chùa và nói, “Đủ rồi, các nhà sư. Đừng cãi nhau nữa.”

Một nhà sư trong nhóm cứng rắn nói, “Hãy để Đức Phật được an lạc. Chúng ta sẽ tiếp tục tranh cãi và sẽ được tiếng tốt.” Điều này cho thấy họ đã trở nên vô lý đến mức nào.

Lúc này, Đức Phật kể cho họ nghe một câu chuyện từ quá khứ.

Ngày xửa ngày xưa, tại vương quốc Benares, vua Brahmadatta đã giết vua Dīghiti xứ Kosala và hoàng hậu, khiến con trai của họ, hoàng tử Dīghāvu, phải trốn vào rừng. Sau khi đau buồn vì cha mẹ, Dīghāvu quyết tâm đến Benares và học nghề quản tượng, và được người huấn luyện voi của chuồng voi chấp nhận. Mỗi sáng, chàng hát hay và chơi đàn luýt, thu hút sự chú ý của vua Brahmadatta. Cảm phục trước tài năng và đạo đức nghề nghiệp của vị hoàng tử trẻ, nhà vua đã đặt niềm tin sâu sắc vào chàng.

Một ngày nọ, khi nhà vua ra lệnh đi săn, Dīghāvu đã nhân cơ hội này dẫn vua ra khỏi quân đội. Khi Brahmadatta đang nghỉ ngơi, đặt đầu trên đùi Dīghāvu, hoàng tử phải đối mặt với một tình huống khó xử về đạo đức. Nhìn thấy kẻ đã giết cha mẹ mình đang sơ hở, dễ bị tổn thương, chàng đã nghĩ đến việc trả thù. Tuy nhiên, chàng nhớ lại lời dạy của cha mẹ rằng đừng nuôi dưỡng thù hận và bạo lực. Quyết tâm làm theo lời khuyên của họ, Dīghāvu quyết định không làm hại nhà vua mà thay vào đó, chàng nêu ván đề với nhà vua về đức tính của lòng từ bi hơn là giận dữ.

Hoàng tử nói với nhà vua về tầm quan trọng của hành động và lời nói tốt đẹp như những người bảo vệ thực sự, nhấn mạnh rằng nuôi dưỡng oán hận chỉ nuôi dưỡng đau khổ và lòng tốt là chìa khóa để chấm dứt hận thù. Cuối cùng, chàng Dīghāvu dâng thanh kiếm của mình cho nhà vua, mời nhà vua tự quyết định số phận của mình. Đáp lại một cách chân thành, Brahmadatta thề sẽ không làm hại hoàng tử, tôn trọng quyết định của chàng trai trẻ và đưa chàng trở về kinh thành.

Tại đây, nhà vua công khai thừa nhận Dīghāvu là con trai của vị vua mà ông đã giết, tuyên bố rằng vua không thể tự mình làm hại chàng trai. Như một dấu hiệu của sự hòa giải, nhà vua gả con gái cho Dīghāvu và khôi phục lại vương quốc của ba mẹ chàng trai. Liên minh mới của họ đã dẫn đến nền hòa bình lâu dài giữa hai nhà cai trị, thể hiện sức mạnh của sự tha thứ và thấu hiểu.

Khi Đức Phật kể xong câu chuyện, Ngài nói: “Vua và hoàng hậu thời đó hiện nay là thành viên của hoàng tộc. Còn Hoàng tử Dīghāvu chính là ta.”

.... o ....

J371. Dighitikosala Jātaka -- Harboring resentment only fosters pain, and kindness is the key to ending hatred.

Summary: Two groups of monks fall into a dispute over a disciplinary matter and, despite being rebuked by the Buddha, continue with it. The Buddha then tells a story about a prince whose parents were killed by a foreign king. Later, when the prince had his enemy at his mercy, he remembered his father’s teaching and chose to forgive him.

.

While the Buddha was staying in Ghosita Park near the city of Kosambī, there were many quarrels among the monks. This quarrel began because two monks lived in the same building. One monk was an expert in the Vinaya (the rules), and the other monk was an expert in the Suttas (the discourses).

One day, the Sutta scholar went to the bathroom and left a small pot of water behind, the extra water used for rinsing the mouth. Later, the Vinaya scholar went in, saw the water, and came out asking, “Did you leave this water here?”

The Sutta scholar said, “Yes.”

The Vinaya scholar said, “Don’t you know that this is wrong?”

The Sutta scholar replied that he did not know.

The Vinaya monk then said, “It is wrong.”

The other monk said, “Then I will confess the mistake.”

But the Vinaya monk now said, “If you did it without knowing, then it’s not a real offense.”

The Sutta monk then thought, “So it’s not wrong,” and did not see the act as a fault anymore.

The Vinaya scholar told his pupils, “This Sutta scholar made a mistake, but he doesn’t think it is wrong.”

His pupils repeated this to the pupils of the Sutta monk, saying, “Your teacher doesn’t recognize his mistake.”

They told their teacher, who said, “But earlier he said it wasn’t wrong, and now he says it is wrong. He is speaking falsely.”

When this message went back, the other group said, “Your teacher lies.” Soon both groups were stirring up anger.

Then the Vinaya scholar formally suspended the Sutta scholar from the community, saying he refused to admit his fault. After that, even the lay people who supported the monks became divided. The nuns became divided. Even the local gods and heavenly beings took sides. The noise of the quarrel even reached the highest heavens.

A monk went to the Buddha and explained both sides:

—One group said, “The suspension was correct.”

—The other said, “The suspension was wrong.”

—Some monks continued to support the suspended monk even though they were told not to.

The Buddha said, “There is indeed a division in the Sangha.” He went to them and explained the suffering that comes from punishing someone wrongly, and the suffering that comes from hiding one’s mistakes. But they still would not stop quarreling.

Later, when they continued to hold meetings together but kept arguing, he made a rule: they must sit alternately, one from each side, to reduce conflict. Still they argued. Finally, he went to the monastery and said, “Enough, monks. Do not quarrel.”

One monk from the stubborn group said, “Let the Buddha enjoy his peace. We will continue quarreling and gain fame for it.” This showed how unreasonable they had become.

At this point, the Buddha told them a story from the past.

A long time ago, in the kingdom of Benares, King Brahmadatta killed King Dīghiti of Kosala and the queen, prompting their son, Prince Dīghāvu, to escape into the forest. After grieving for his parents, Dīghāvu resolved to enter Benares and train as an elephant handler, which was accepted by the stable's elephant trainer. Each morning, he sang beautifully and played the lute, catching the attention of King Brahmadatta. Impressed by the young prince's skills and work ethic, the king developed deep trust in him.

One day, when the king ordered a hunting trip, Dīghāvu took the opportunity to lead the king away from the army. As Brahmadatta rested in Dīghāvu's lap, the prince faced a moral dilemma. Seeing the man who had murdered his parents vulnerable, he considered taking revenge. However, he recalled his parents' teachings against hatred and violence. Determined to adhere to their counsel, Dīghāvu decided not to harm the king but instead confronted him about the virtues of compassion over anger.

The prince spoke to the king about the importance of good actions and words as true protectors, emphasizing that harboring resentment only fosters pain and that kindness is the key to ending hatred. Dīghāvu ultimately offered the king his sword, inviting him to decide his fate. In a sincere response, Brahmadatta vowed not to harm the prince, honored the young man’s decision, and took him back to the city.

There, the king openly acknowledged Dīghāvu as the son of the king he had killed, declaring he could not bring himself to harm him. As a sign of reconciliation, the king granted Dīghāvu his daughter in marriage and restored his father's kingdom. Their new alliance resulted in lasting peace between the two rulers, showcasing the power of forgiveness and understanding.

When the Buddha finished the story, he said, “The king and queen of that time are now members of the royal family today. And Prince Dīghāvu was myself.”

.... o ....

372. Migapotaka Jātaka -- Khóc lóc không thể làm người đã chết sống lại.

Tóm tắt: Một vị sư già có một chú tiểu giúp việc. Khi chú tiểu qua đời, vị sư già đau buồn khôn xiết. Đức Phật bèn kể câu chuyện về một vị khổ hạnh nuôi một chú nai con và lời khuyên vị này nhận được từ Vua Trời Sakka khi chú nai chết.

.

Khi Đức Phật còn tại Jetavana, Ngài đã kể một câu chuyện về một vị sư lớn tuổi. Vị sư này đã nhận một chàng trai trẻ làm sa di. Sa di đã tận tụy phục vụ ngài, giúp đỡ ngài mọi việc. Sau đó, sa di trẻ tuổi lâm bệnh và qua đời.

Vị sư già rất đau khổ. Ông đi khắp nơi khóc lóc thảm thiết. Các vị sư khác cố gắng an ủi ông, nhưng không có tác dụng. Họ bàn bạc về tình hình tại Chánh Pháp Điện, nói rằng: "Vị sư già cứ thương tiếc sa di của mình. Nếu cứ nghĩ đến cái chết như vậy, tâm trí của ông có thể sẽ trở nên hỗn loạn."

Khi Đức Phật đến và hỏi họ đang bàn luận điều gì, họ trả lời. Ngài nói: "Đây không phải lần đầu tiên vị sư già này thương tiếc chàng trai trẻ này. Trước đây, ông cũng đã khóc như vậy khi chàng trai trẻ này mất." Rồi Ngài kể một câu chuyện từ rất lâu rồi.

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Benares, Bồ Tát đã tái sinh làm Sakka, vua của các vị trời.

Vào thời đó, một người đàn ông từ xứ Kasi đã đến sống như một nhà tu khổ hạnh trong rừng Himalaya. Ông sống bằng trái cây dại. Một ngày nọ, ông tìm thấy một con nai con đã chết mẹ. Ông mang con nai con về túp lều của mình, cho nó ăn và chăm sóc nó với tình thương vô bờ bến. Con nai lớn lên thành một con nai đẹp đẽ. Nhà tu khổ hạnh đối xử với nó như con ruột của mình.

Một ngày nọ, con nai ăn quá nhiều cỏ, bị bệnh và chết. Nhà tu khổ hạnh vô cùng đau buồn. Ông đi khắp nơi khóc lóc, nói rằng: "Con tôi đã chết rồi".

Vua trời Sakka thấy vậy trong khi quan sát thế gian. Muốn giúp nhà tu khổ hạnh hiểu được chân lý, ngài hiện ra trên bầu trời và nói. Ngài nói với nhà tu khổ hạnh rằng việc than khóc triền miên không phù hợp với một người đã rời bỏ thế gian để sống tự do.

Nhà tu khổ hạnh trả lời rằng mặc dù ông sống một mình, nhưng việc sống gần gũi với nai đã biến con nai thành bạn đồng hành, và ông cảm thấy nhẹ nhõm khi khóc thương cho người bạn đã mất của mình.

Sakka sau đó bình tĩnh giải thích rằng khóc lóc không thể mang người đã chết trở về. Nếu nước mắt có thể cứu người chết, thì tất cả mọi người trên thế gian này đều sẽ khóc để mang những người họ yêu thương trở về. Ngài nhắc nhở vị đạo sĩ rằng nỗi đau buồn không thể thay đổi cái chết.

Nghe vậy, vị đạo sĩ nhận ra rằng nỗi đau buồn của mình thật vô ích. Ngài ca ngợi Sakka đã giúp ngài hiểu ra. Ngài nói rằng những lời của Sakka đã xua tan nỗi đau của ngài, như nước dập tắt lửa. Ngài cảm thấy tâm mình trở nên bình thản và an lạc trở lại.

Sau khi thuyết giảng, Sakka trở về thiên giới.

Đức Phật kết thúc bài giảng và giải thích về các danh tính: “Nhà sư già chính là vị đạo sĩ ngày xưa. Sa di là con nai. Và chính ta chính là Sakka.”

.... o ....

J372. Migapotaka Jātaka -- Crying cannot bring back someone who has passed away.

Summary: An old monk has a novice to assist him. When the novice dies, the monk is inconsolable. The Buddha then tells a story about an ascetic who raised a young deer and the advice he received from Sakka when the deer died.

.

While the Buddha was living at Jetavana, he told a story about an elder monk. This elder had accepted a young man as a novice. The novice served him faithfully, helping him with everything. Later, the young novice became sick and died.

The old monk was heartbroken. He walked around crying loudly. Other monks tried to comfort him, but nothing helped. They discussed the situation in the Hall of Truth, saying, “The old monk keeps mourning his novice. If he keeps thinking about death in this way, his mind may fall into confusion.”

When the Buddha arrived and asked what they were discussing, they told him. He said, “This is not the first time this old man has mourned this youth. In the past as well, he cried in the same way when this young one died.” Then he told a story from long ago.

Long ago, when King Brahmadatta ruled in Benares, the Bodhisatta was reborn as Sakka, the king of the gods.

At that time, a man from the country of Kasi went to live as an ascetic in the Himalayan forest. He lived on wild fruits. One day he found a young deer whose mother had died. He took the little deer back to his hut, fed it, and cared for it with great love. The deer grew into a beautiful adult. The ascetic treated it like his own child.

One day, the deer ate too much grass, became sick, and died. The ascetic was overwhelmed with grief. He walked around crying, saying, “My child is dead.”

Sakka saw this while observing the world. Wanting to help the ascetic understand the truth, he appeared in the sky above him and spoke. He told the ascetic that mourning endlessly did not suit someone who had left the world to live freely.

The ascetic replied that even though he lived alone, living closely with the deer had made them companions, and he felt relief by crying for his lost friend.

Sakka then explained calmly that crying cannot bring back someone who has died. If tears could save the dead, everyone in the world would weep to bring back the people they love. He reminded the ascetic that grief cannot change death.

Hearing this, the ascetic realized that his sorrow was useless. He praised Sakka for helping him understand. He said that Sakka’s words had removed his pain, like water putting out a fire. He felt his heart grow calm and peaceful again.

After giving this teaching, Sakka returned to his heavenly home.

The Buddha ended the lesson and explained the identities: “The old monk was the ascetic in the past. The novice was the deer. And I myself was Sakka.”

.... o ....

J373. Musika Jātaka -- Trí tuệ, ngay cả khi không áp dụng ngay lập tức, một ngày nào đó cũng có thể cứu sống một mạng người.

Tóm tắt: Đức Phật kể lại câu chuyện về một hoàng tử có ý định giết cha mình nhưng đã bị ngăn cản bởi những bài kệ mà phụ vương học từ vị thầy, người đã thấy trước được mối nguy hiểm.

.

Khi Đức Phật ngự tại Trúc Lâm, Ngài kể câu chuyện về vua A Xà Thế (Ajātasattu). Đức Phật thấy nhà vua vừa chơi đùa với hoàng tử nhỏ vừa lắng nghe Pháp. Đức Phật biết rằng một ngày nào đó nguy hiểm sẽ đến với nhà vua vì chính cậu con trai này. Vì vậy, Đức Phật nói: "Các vị vua vĩ đại trong quá khứ rất cẩn thận. Nếu họ nghi ngờ con trai mình có thể gây hại, họ sẽ canh giữ các hoàng tử cho đến khi họ băng hà." Rồi Đức Phật kể câu chuyện này, xảy ra từ rất lâu rồi.

Ngày xưa, dưới triều đại của vua Brahmadatta xứ Benares, Bồ Tát sinh ra trong một gia đình Bà La Môn và trở thành một bậc thầy nổi tiếng. Hoàng tử Yava, con trai của nhà vua, đã học tất cả các môn nghệ thuật với vị thầy này. Khi hoàn tất việc học, ngài từ biệt và chuẩn bị trở về nhà.

Nhưng vị thầy biết, bằng trí tuệ của mình, rằng một ngày nào đó hoàng tử sẽ phải đối mặt với nguy hiểm từ chính đứa con trai tương lai của hoàng tử. Vị thầy muốn cảnh báo hoàng tử theo cách mà hoàng tử sẽ nhớ, vì vậy ngài đã tìm một ví dụ tốt để sử dụng.

Lúc bấy giờ, người thầy có một con ngựa bị thương ở chân. Vì vết thương, con ngựa được nhốt trong chuồng. Gần đó có một con chuột, ngày nào nó cũng ra gặm chỗ đau, khiến con ngựa đau đớn khôn tả. Một hôm, con ngựa không chịu nổi nữa. Khi con chuột đến, con ngựa dậm chân chết con chuột, xác nó rơi xuống giếng gần đó.

Sau đó, những người chăn ngựa nói: "Con chuột thường đến mỗi ngày, nhưng hôm nay chúng ta không thấy nó đâu cả. Nó đi đâu rồi?". Người thầy, người đã chứng kiến ​​toàn bộ sự việc, tự nhủ: "Chỉ có ta mới biết chuyện gì đã xảy ra. Con chuột đã chết và nằm dưới giếng rồi." Thầy biến điều này thành một bài kệ dạy dỗ và trao cho hoàng tử.

Sau đó, khi vết thương của con ngựa lành lại, nó trốn thoát và đi ăn lúa mạch từ một cánh đồng gần đó, thò đầu qua một lỗ thủng trên hàng rào. Người thầy cũng dùng điều này làm bài học và trao cho hoàng tử một bài kệ thứ hai. Bài kệ thứ ba được ông sáng tác từ chính trí tuệ của mình.

Sau đó, vị thầy thông thái nói: "Khi lên ngôi vua, con hãy đọc câu thơ đầu tiên ở bồn tắm, câu thơ thứ hai ở chân cầu thang cung điện, và câu thơ thứ ba ở đầu cầu thang." Sau khi dặn dò như vậy, vị thầy cho hoàng tử về nhà.

Hoàng tử trở về nhà, làm phó vương, và khi cha qua đời, hoàng tử lên ngôi vua. Sau đó, ông có một con trai. Khi tròn mười sáu tuổi, chàng trai khao khát được trị vì. Chàng không muốn đợi đến khi phụ vương già yếu. Chàng tập hợp các cận thần và nói: "Nếu cha ta sống lâu, ta sẽ chỉ thừa kế vương quốc khi ta già. Ta muốn trị vì ngay bây giờ."

Các cận thần nói với chàng: "Ngài phải tìm cách giết cha của ngài."

Hoàng tử đồng ý. Một buổi tối, chàng trốn gần bồn tắm hoàng gia với một thanh kiếm, chờ đợi để giết nhà vua. Nhà vua sai một nữ tỳ tên là Musika đến dọn dẹp bồn tắm. Khi nữ tỳ thấy hoàng tử trốn, hoàng tử sợ rằng nàng sẽ tiết lộ kế hoạch của mình, nên đã giết nàng và ném xác xuống nước.

Khi nhà vua đến, mọi người thắc mắc tại sao Musika vẫn chưa trở về. Nhà vua bước đến mép bồn tắm và đọc lại câu thơ đầu tiên mà thầy giáo đã dạy. Câu thơ miêu tả một sinh vật mất tích, xác của nó nằm ẩn trong giếng.

Nghe thấy vậy, hoàng tử hoảng sợ. Chàng nghĩ: "Phụ vương biết chuyện ta đã làm!" và bỏ chạy trong sợ hãi.

Một tuần sau, các cận thần của chàng nói: "Nếu nhà vua thực sự biết, ngài đã hành động từ lâu rồi. Chắc hẳn ngài chỉ đoán mò thôi. Thử lại xem." Vậy là hoàng tử lại trốn, lần này dưới chân cầu thang cung điện, tay cầm kiếm.

Khi nhà vua đến gần, nhà vua đọc lại câu thơ thứ hai, miêu tả một sinh vật phiền phức đang lượn lờ như một con vật mang vác nặng. Một lần nữa, hoàng tử tin rằng nhà vua đã nhìn thấy nó và bỏ chạy trong sợ hãi.

Hai tuần sau, hoàng tử nghĩ: "Ta sẽ giết vua cha bằng xẻng." Chàng đợi ở đầu cầu thang với một dụng cụ cán dài. Nhà vua trèo lên, đọc lại câu thơ thứ ba, miêu tả một đứa trẻ ngốc nghếch cầm một dụng cụ dài và âm mưu gây hại.

Lần này, hoàng tử không thể trốn thoát. Quá kinh hãi, chàng quỳ xuống chân vua cha và cầu xin: "Xin vua cha tha mạng cho con!" Nhà vua mắng nhiếc, rồi ra lệnh trói chàng lại và tống giam vào ngục.

Sau đó, nhà vua ngồi trên ngai vàng dưới chiếc lọng trắng và nói: "Vị thầy vĩ đại của ta đã biết trước mối nguy hiểm này từ lâu và đã truyền cho ta ba bài kệ này." Nỗi sợ hãi của nhà vua chuyển thành niềm vui, và vua đọc nốt phần còn lại của lời dạy, ca ngợi giá trị của kiến ​​thức. Phụ vương nói rằng trí tuệ, ngay cả khi không được sử dụng ngay lập tức, một ngày nào đó có thể cứu sống một mạng người.

Sau đó, khi nhà vua băng hà, con trai của ngài - người đã cố gắng giết vua cha - được thả ra và lên ngôi.

Đức Phật kết thúc câu chuyện và nói: "Vị thầy thông thái trong câu chuyện đó chính là ta."

.... o ....

J373. Musika Jātaka -- Wisdom, even when not immediately applied, can one day save a life.

Summary: The Buddha recounts a story about a prince who intended to kill his father but was dissuaded by verses given to the king by his teacher, who had foreseen the danger.

.

While the Buddha was staying at the Bamboo Grove, he told this story about King Ajātasattu. The Buddha saw the king playing with his young son while also listening to the Dharma. The Buddha knew that one day danger would come to the king because of this very son. So he said, “Great kings of the past were careful. If they suspected possible harm from their own sons, they kept the princes guarded until after their own death.” Then the Buddha told this story from long ago.

Long ago, during the reign of King Brahmadatta of Benares, the Bodhisatta was born into a brahmin family and became a famous teacher. Prince Yava, the king’s son, studied all the arts with this teacher. When his training was complete, he said goodbye and prepared to return home.

But the teacher knew, through his wisdom, that someday the prince would face danger from his own future son. He wanted to warn the prince in a way he would remember, so he looked for a good example to use.

At that time the teacher owned a horse that had a sore on its foot. Because of the sore, the horse was kept inside a stable. A mouse lived nearby, and every day it came out to nibble the sore spot, causing the horse great pain. One day the horse could not stand it anymore. When the mouse came, the horse stamped its foot and killed the mouse, and the body fell into a nearby well.

The grooms later said, “The mouse usually comes every day, but today we don’t see it. Where has it gone?” The teacher, who had watched the whole event, said to himself, “Only I know what really happened. The mouse is dead and lying in the well.” He turned this into a teaching verse and gave it to the prince.

Later, when the horse’s sore was healed, it escaped and went to eat barley from a nearby field, pushing its head through a hole in the fence. The teacher used this too as a lesson and gave the prince a second verse. The third verse he created from his own wisdom.

Then he said: “When you become king, repeat the first verse at the bathing tank, the second verse at the foot of the palace stairs, and the third verse at the top of the stairs.” After giving this instruction, he sent the prince home.

The prince returned home, served as viceroy, and when his father died he became king. He later had one son. When the boy turned sixteen, he became eager to rule. He did not want to wait until his father grew old. He gathered his attendants and said, “If my father lives long, I will only inherit the kingdom when I am old. I want to rule now.”

His followers told him, “You must find a way to kill your father.”

The prince agreed. One evening he hid near the royal bathing tank with a sword, waiting to kill the king. The king sent a female servant named Musika to clean the tank. When she saw the prince hiding, he feared she would reveal his plan, so he killed her and threw her body into the water.

When the king arrived, people wondered why Musika had not returned. The king walked to the edge of the bathing tank and repeated the first verse the teacher had taught him. It described a missing creature whose body lay hidden in a well.

The prince, hearing this, panicked. He thought, “My father knows what I have done!” and he ran away in fear.

A week later, his attendants said, “If the king really knew, he would have acted by now. He must have been guessing. Try again.” So the prince hid again, this time at the foot of the palace stairs, sword in hand.

When the king approached, he repeated the second verse, which described a troublesome creature circling around like a burden-bearing animal. Again the prince believed the king had seen him and fled in fear.

Two weeks later, the prince thought, “I will kill him with a shovel.” He waited at the top of the stairs with a long-handled tool. The king climbed up, repeating the third verse, which described a foolish child holding a long tool and planning harm.

This time the prince could not escape. Terrified, he fell at his father’s feet and begged, “Please spare my life!” The king scolded him, then had him tied up and thrown into prison.

The king then sat on his royal seat under the white parasol and said, “My great teacher knew this danger long ago and gave me these three verses.” His fear turned into joy, and he recited the rest of the teaching, praising the value of knowledge. He said that wisdom, even when not immediately used, can someday save a life.

Later, when the king died, his son—the one who had tried to kill him—was released and placed on the throne.

The Buddha finished the story and said, “The wise teacher in that story was me.”

.... o ....

J374. Culladhanuggaha Jātaka -- Quá tham lam cuối cùng sẽ chẳng có gì cả.

Tóm tắt: Một vị sư cảm thấy bất mãn và muốn rời bỏ cuộc sống tu hành. Đức Phật kể cho sư nghe câu chuyện về một chàng trai trẻ bị vợ phản bội vì đã để mắt đến một người đàn ông khác. Tuy nhiên, người tình mới của cô, cảm nhận được sự thay đổi thất thường của cô, đã bỏ rơi cô. Sau đó, Sakka hóa thân thành một con chó rừng để dạy cho cô một bài học.

.

Đức Phật kể câu chuyện này khi Ngài đang ở tại Jetavana. Câu chuyện kể về một nhà sư bị quyến rũ bởi người phụ nữ mà sư đã kết hôn trước khi xuất gia. Nhà sư nhìn nhận rằng sư hối hận vì đã đi xuất gia vì người phụ nữ này. Đức Phật nói: "Người phụ nữ này không chỉ gây rắc rối cho con bây giờ mà còn trong kiếp trước. Vì cô ta mà con đã mất mạng trước đây." Rồi Đức Phật kể câu chuyện từ quá khứ này.

Ngày xưa, dưới triều đại của vua Brahmadatta ở Benares, Bồ tát đã tái sinh thành Sakka (Đế Thích), vua của các vị cõi trời.

Lúc bấy giờ, có một thanh niên Bà-la-môn từ Benares đến thành Takkasila để học tất cả các loại võ thuật. Anh ta trở thành một cung thủ xuất sắc và được mệnh danh là "Chàng cung thủ nhỏ thông minh". Sư phụ của anh ta rất hài lòng với anh ta đến nỗi gả con gái mình cho chàng cung thủ trẻ tuổi làm vợ.

Chàng cung thủ và người vợ mới cưới sau đó bắt đầu hành trình trở về Benares. Trên đường đi, họ đến một nơi mà một con voi hoang dã đã gây ra sự tàn phá. Không ai dám đến đó. Nhưng cung thủ phớt lờ mọi lời cảnh báo và cùng vợ đi vào rừng. Khi con voi tấn công, cung thủ bắn một mũi tên xuyên thẳng qua đầu voi, giết chết nó.

Họ tiếp tục hành trình và đến một khu vực nguy hiểm khác, nơi năm mươi tên cướp đã tấn công những người lữ hành. Cung thủ lại phớt lờ lời cảnh báo và tiến về phía trước. Khi bọn cướp nhìn thấy cung thủ cùng người vợ ăn mặc lộng lẫy, chúng muốn bắt họ. Nhưng thủ lĩnh của chúng nhìn thấy anh ta là một chiến binh cừ khôi, nên đã ngăn chặn chúng ngay lập tức.

Cung thủ sai vợ đi xin thịt chín. Bọn cướp bực mình, đưa cho cô thịt sống. Cung thủ nổi giận vì bị chúng sỉ nhục. Bọn cướp cũng cảm thấy bị sỉ nhục và tấn công cung thủ.

Cung thủ đã chiến đấu dũng cảm và giết chết bốn mươi chín tên cướp bằng bốn mươi chín mũi tên. Anh đã dùng một mũi tên để giết con voi, nên ống tên của anh ta giờ đã trống rỗng. Chỉ còn tên trùm băng cướp còn sống. Cung thủ đánh ngã hắn xuống đất và ngồi lên ngực hắn. Cung thủ bảo vợ mang kiếm đến để kết liễu cuộc chiến.

Nhưng đúng lúc đó, người phụ nữ lại phải lòng tên cướp. Thay vì đưa kiếm cho chồng, cô ta đưa chuôi kiếm cho tên cướp và vỏ kiếm cho chồng. Tên cướp rút kiếm ra và giết chết cung thủ. Sau đó, hắn mang người phụ nữ đi cùng.

Trên đường đi, hắn hỏi cô là ai. Cô nói mình là con gái của một giáo viên nổi tiếng ở Takkasila. Cô kể cho hắn nghe toàn bộ câu chuyện và thậm chí còn nói rằng cô để hắn giết chồng mình vì cô đã phải lòng hắn.

Tên cướp nghĩ: "Nếu cô ta phản bội chồng mình vì ta, cô ta cũng sẽ phản bội ta." Vì vậy, hắn lên kế hoạch thủ tiêu cô.

Họ đến một con sông thường cạn nhưng giờ đã đầy nước. Hắn nói với cô rằng có một con cá sấu nguy hiểm ở đó. Cô nói: "Hãy mang tất cả đồ trang sức của ta được gói trong áo choàng qua sông trước. Sau đó quay lại tìm ta."

Tên cướp đồng ý, lấy hết đồ trang sức của cô, qua sông và bỏ chạy.

Người phụ nữ bị bỏ rơi khóc lóc van xin tên cướp trở về, nhưng y đã biến mất.

Nàng ngồi xuống gần bụi quế và bắt đầu khóc. Ngay lúc đó, Đế Thích nhìn xuống từ trên trời. Ngài thấy người phụ nữ khóc, lòng tràn đầy khao khát và đau buồn cho cả chồng lẫn người tình. Ngài quyết định dạy cho nàng một bài học.

Đế Thích xuống cùng hai tùy tùng, Matali và Pancasikha. Ngài biến Matali thành cá, Pancasikha thành chim, và bản thân thành chó rừng. Ngài bỏ một miếng thịt vào miệng và đến đứng cạnh người phụ nữ.

Matali, dưới hình dạng một con cá, nhảy lên khỏi mặt nước. Đế Thích, dưới hình dạng chó rừng, thả miếng thịt xuống để tóm lấy con cá. Con cá lại trượt xuống nước. Khi chó rừng quay lại để lấy thịt, con chim bay xuống, chộp lấy miếng thịt rồi bay đi. Thế là chó rừng mất cả cá lẫn thịt.

Người phụ nữ chứng kiến ​​tất cả những điều này và cười. Cô nói: "Vì hắn quá tham lam nên cuối cùng hắn trắng tay!"

Vua trời Sakka (Đế Thích), vẫn còn trong hình dạng một con chó rừng, bảo nàng đừng cười khi chính nàng đã mất cả chồng lẫn người tình chỉ vì dục vọng của bản thân.

Nàng đáp rằng nàng đã học được bài học và giờ sẽ đi tìm một người chồng khác và cố gắng chung thủy.

Sakka sau đó hiện ra dưới hình dạng thật và nhắc nhở nàng rằng kẻ phản bội một lần thì sẽ phản bội lần nữa. Ngài khiến nàng cảm thấy xấu hổ về hành vi của mình, dạy cho nàng một bài học, rồi trở về cõi trời.

Đức Phật kết thúc bài giảng và giải thích mọi người trong câu chuyện là ai: Nhà sư lui sụt chính là chàng cung thủ trẻ tuổi; người phụ nữ gây rắc rối chính là người phụ nữ trong câu chuyện; tên cướp đầu sỏ đóng vai trò của hắn; và Sakka trong câu chuyện chính là Đức Phật.

Nhà sư nghe câu chuyện đã đạt đến tầng giác ngộ đầu tiên, sơ quả Nhập Lưu.

.... o ....

J374. Culladhanuggaha Jātaka -- Those who are excessively greedy will ultimately end up with nothing.

Summary: One monk feels discontented and contemplates leaving the monastic life. The Buddha tells him a story about a young man betrayed by his wife, who had taken a fancy to another man. However, her new lover, sensing her fickleness, abandons her. Then, Sakka takes the form of a jackal to teach her a lesson.

.

The Buddha told this story while he was staying at Jetavana. It was about a monk who was tempted by the woman he had been married to before he became a monk. The monk admitted that he regretted becoming a monk because of her. The Buddha said, “This woman has caused you trouble not only now, but also in a past life. Because of her, you even lost your life before.” Then the Buddha told this story from the past.

Long ago, during the reign of King Brahmadatta in Benares, the Bodhisatta was reborn as Sakka, the king of the gods.

At that time, there was a young brahmin from Benares who went to the city of Takkasila to learn all the arts. He became an excellent archer and was known as “the clever Little Archer.” His teacher was so pleased with him that he gave his daughter to the young archer as his wife.

The archer and his new wife then began their journey back to Benares. On the way, they came to a place where a wild elephant had been causing destruction. No one dared to go there. But the archer ignored all warnings and went into the forest with his wife. When the elephant attacked, the archer shot an arrow straight through its head, killing it.

They continued traveling and came to another dangerous area where fifty robbers attacked travelers. The archer ignored warnings again and went forward. When the robbers saw him with his beautifully dressed wife, they wanted to capture them. But their leader could see from the archer’s appearance that he was a great fighter, so he stopped the robbers from attacking immediately.

The archer sent his wife to ask the robbers for some cooked meat. The robbers, annoyed, gave her raw meat instead. The archer became angry that they insulted him. The robbers then felt insulted in return and attacked him.

The archer fought bravely and killed forty-nine robbers with forty-nine arrows. He had already used one arrow to kill the elephant, so his quiver was now empty. Only the robber chief remained alive. The archer knocked him to the ground and sat on his chest. He told his wife to bring him his sword so he could finish the fight.

But at that moment, the woman fell in love with the robber chief. Instead of handing the sword to her husband, she gave the handle to the robber and the sheath to her husband. The robber pulled the sword out and killed the archer. Then he took the woman with him.

As they walked together, he asked who she was. She said she was the daughter of a famous teacher from Takkasila. She told him the whole story and even said she let him kill her husband because she had fallen in love with him.

The robber chief thought, “If she betrayed her own husband for me, she will betray me too.” So he planned to get rid of her.

They came to a river that was usually shallow but was now full of water. He told her there was a dangerous crocodile in it. She said, “Take all my jewelry wrapped in your robe across the river first. Then come back for me.”

The robber agreed, took all her jewelry, crossed the river, and ran away.

The deserted woman cried out for him to return, but he disappeared.

She sat down near some cassia bushes and began to weep. At that moment, Sakka looked down from heaven. He saw the woman crying, filled with desire and sorrow for both her husband and her lover. He decided to teach her a lesson.

Sakka came down with his two helpers, Matali and Pancasikha. He turned Matali into a fish, Pancasikha into a bird, and himself into a jackal. He put a piece of meat in his mouth and went to stand near the woman.

Matali, as a fish, jumped out of the water. Sakka, as the jackal, dropped the meat to grab the fish. The fish slipped back into the water. As the jackal turned back to get the meat, the bird flew down, grabbed the meat, and flew away. So the jackal lost both the fish and the meat.

The woman saw all this and laughed. She said, “Because he was too greedy, he ended up with nothing!”

Sakka, still in the form of a jackal, told her she should not laugh when she herself had lost both her husband and her lover because of her own desires.

She replied that she had learned her lesson and would now go find another husband and try to be faithful.

Sakka then appeared in his true form and reminded her that a person who betrays once will betray again. He made her feel ashamed of her behavior, taught her a lesson, and then returned to heaven.

The Buddha finished the teaching and explained who everyone in the story had been: The backsliding monk was the Little Archer; the woman who caused trouble was the same woman in the story; the robber chief played his part; and Sakka in the story was the Buddha himself.

The monk who heard the story reached the first stage of enlightenment.

.... o ....

J375. Kapota Jātaka -- Hậu quả lòng tham: kiếp trước của 1 nhà sư khi làm con quạ

Tóm tắt: Có một vị sư rất tham lam, đi hết chỗ này đến chỗ khác để xin đồ ăn. Đức Phật giải thích rằng vị sư này cũng từng tham lam trong một kiếp trước, khi còn là quạ, ông đã lừa bạn mình là bồ câu để vào bếp và lấy trộm đồ ăn. Tuy nhiên, người đầu bếp đã bắt được ông, lôi ông ra và bỏ mặc ông chết.

.

Đức Phật kể câu chuyện này khi Ngài đang ở tại Kỳ Viên. Câu chuyện kể về một vị sư rất tham lam. Đức Phật hỏi: "Ông có tham lam không?" Vị sư thừa nhận là có. Đức Phật nói: "Đây không phải lần đầu tiên ông tham lam. Từ lâu rồi, vì lòng tham mà ông đã chết." Rồi Đức Phật kể một câu chuyện từ quá khứ.

Ngày xửa ngày xưa, vào thời vua Brahmadatta xứ Benares, Bồ Tát sinh ra là một chú chim bồ câu non. Ngài sống trong một chiếc lồng mây trong bếp của một thương gia giàu có.

Cũng trong bếp đó có một con quạ. Con quạ rất thích ăn cá và thịt. Nó kết bạn với con chim bồ câu để có thể ở gần bếp và thức ăn của nó.

Một hôm, con quạ thấy rất nhiều cá và thịt được chuẩn bị. Nó muốn ăn hết tất cả. Để chắc chắn rằng con chim bồ câu sẽ để nó yên, con quạ nằm trong lồng giả vờ bị bệnh. Nó rên rỉ rất to.

Con bồ câu hỏi: "Này bạn, chúng ta cùng ra ngoài kiếm thức ăn nhé?"

Con quạ nói: "Không, tôi thấy không khỏe. Anh đi một mình đi."

Ngay khi chim bồ câu bay đi, con quạ tự nhủ: "Tốt! Giờ nó đi rồi, mình có thể ăn bao nhiêu thịt cá tùy thích."

Trong lúc người đầu bếp bước ra lau mồ hôi trên mặt, con quạ nhảy ra khỏi giỏ và trốn vào một bát lớn đựng đầy gia vị.

Cái bát kêu lên một tiếng động. Người đầu bếp chạy lại, nhìn thấy con quạ, túm lấy nó và nhổ hết lông. Sau đó, ông trộn gừng, mù tạt trắng và một quả chà là thối, rồi bôi hỗn hợp lên khắp da trần của con quạ. Ông chà xát nó bằng một mảnh vỡ của chiếc nồi, khiến con quạ bị thương nặng. Sau đó, ông buộc mảnh vỡ của chiếc nồi vào cổ con quạ bằng một sợi dây, ném nó trở lại giỏ và bỏ đi.

Khi con bồ câu quay lại và thấy con quạ trong tình trạng tồi tệ này, nó nói đùa: "Con chim lạ nằm trong giỏ của bạn tôi là ai vậy? Bạn tôi, con quạ, tính tình nóng nảy - nó sẽ nổi giận nếu thấy một người lạ ở đây."

Con quạ yếu ớt trả lời, giải thích chuyện gì đã xảy ra. Bồ câu tiếp tục trêu chọc ông, nói rằng ông trông sạch sẽ và được trang hoàng lộng lẫy, giống như một người vừa đi du ngoạn xa hoa. Con quạ đáp rằng không ai nên đến Benares, vì người dân ở đó đã lột trần ông và buộc một mảnh nồi vào ngực ông.

Cuối cùng, bồ câu ngừng nói đùa và nói: "Đây là điều xảy ra khi bạn không thể từ bỏ những thói quen xấu của mình. Chim chóc không nên cố gắng ăn thức ăn của con người."

Nói xong, bồ câu bay đi. Nhưng con quạ bị thương nặng đến nỗi chết tại đó.

Đức Phật kết thúc câu chuyện và giải thích từng nhân vật: Con quạ là nhà sư tham lam. Con bồ câu là chính Đức Phật trong một kiếp trước.

Đức Phật cũng dạy các nhà sư Tứ Diệu Đế. Khi Ngài kết thúc, nhà sư tham lam đã đạt đến tầng giác ngộ thứ hai, chứng quả Nhất Lưu.

.... o ....

J375. Kapota Jātaka -- The Consequences of Greed: A Monk's Past Life as a Crow

Summary: One monk was very greedy and went from supporter to supporter, collecting food. The Buddha explained that this monk had also been greedy in a previous life when, as a crow, he deceived his friend, the pigeon, to gain access to a kitchen, from which he stole food. However, the cook caught him, plucked him, and left him to die.

.

The Buddha told this story while he was staying at Jetavana. It was about a monk who was very greedy. The Buddha asked him, “Are you greedy?” The monk admitted he was. The Buddha then said, “This is not the first time you were greedy. Long ago, because of greed, you even died.” Then the Buddha told a story from the past.

A long time ago, in the time of King Brahmadatta of Benares, the Bodhisatta was born as a young pigeon. He lived in a wicker cage in the kitchen of a rich merchant.

In that same kitchen lived a crow. The crow loved to eat fish and meat. He became friends with the pigeon so he could stay close to the kitchen and its food.

One day the crow saw a lot of fish and meat being prepared. He wanted to eat all of it. To make sure the pigeon would leave him alone, the crow lay in the cage pretending to be sick. He groaned loudly.

The pigeon asked, “Friend, shall we go out to look for food together?”

The crow said, “No, I feel unwell. You go alone.”

As soon as the pigeon left, the crow said to himself, “Good! Now that he is gone, I can eat all the fish and meat I want.”

While the cook stepped out for a moment, wiping sweat from his face, the crow jumped out of the basket and hid inside a big bowl full of spices.

The bowl made a noise. The cook ran back, saw the crow, grabbed him, and pulled out all his feathers. Then he mixed ginger, white mustard, and a rotten date, and smeared the mixture all over the crow’s bare skin. He rubbed it in with a broken pot shard, which hurt the crow badly. Then he tied the pot shard around the crow’s neck with a string, threw him back into the basket, and went away.

When the pigeon returned and saw the crow in this terrible condition, he joked, “Who is this strange bird lying in my friend’s basket? My friend the crow has a hot temper—he will be angry to find a stranger here.”

The crow weakly answered, explaining what had happened. The pigeon continued teasing him, saying he looked clean and decorated, like someone who had gone on a fancy trip. The crow replied that no one should ever want to go to Benares, because the people there had plucked him bare and tied a pot shard to his chest.

Finally, the pigeon stopped joking and said, “This is what happens when you cannot stop your bad habits. Birds should not try to eat the food of humans.”

After saying this, the pigeon flew away from that place. But the crow was so injured that he died there.

The Buddha finished the story and explained who each character had been: The crow was the greedy monk. The pigeon was the Buddha himself in a past life.

The Buddha also taught the monks the Four Noble Truths. When he finished, the greedy monk reached the second stage of enlightenment.

.... o ....

J376. Avariya Jātaka -- Dù đang ở đâu - trong làng, góc rừng, ven biển hay bên bờ sông - nhớ đừng nổi giận.

Tóm tắt: Một nhà sư đến thăm Đức Phật thì bị một người lái đò nổi giận dội nước vào người. Để đáp lại, Đức Phật kể câu chuyện về một người lái đò đã bỏ ngoài tai lời khuyên tốt và mất hết tất cả.

.

Đức Phật kể câu chuyện này tại Jetavana về một người lái đò. Người lái đò này rất ngu ngốc và thô lỗ. Ông ta không hiểu được giá trị của Đức Phật, Giáo pháp và Tăng đoàn. Ông ta nóng tính và thường cư xử thô bạo.

Một buổi tối, có một vị sư từ nông thôn đến sông Aciravati. Nhà sư muốn qua sông để viếng thăm Đức Phật. Nhà sư nói với người lái đò: "Này cư sĩ, xin hãy đưa tôi qua sông."

Người lái đò nói: "Đã quá muộn rồi. Hãy ở lại đây."

Vị sư nói: "Tôi không thể ở lại. Xin hãy đưa tôi qua sông."

Người lái đò nổi giận, nhưng vẫn cho ông ta lên thuyền. Ông ta lái đò không khéo, nên nước tràn vào và áo của vị sư bị ướt. Khi họ đến bờ bên kia thì trời đã tối. Vì sự chậm trễ này, vị sư không thể đến viếng Đức Phật hôm đó.

Ngày hôm sau, ông đến gặp Đức Phật. Đức Phật hỏi ông đã đến khi nào. Khi nhà sư kể lại sự việc, Đức Phật nói: “Người lái đò này không chỉ thô lỗ bây giờ mà cả trong quá khứ nữa. Xưa kia, hắn đã làm phiền những người thông thái như đã làm phiền ông.” Rồi Đức Phật kể câu chuyện này từ quá khứ.

Ngày xưa, tại Benares, khi Brahmadatta làm vua. Bồ-tát sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn. Khi lớn lên, ngài học mọi nghệ thuật và sau này trở thành một nhà tu khổ hạnh. Ngài sống trên dãy núi Himalaya bằng trái cây dại trong nhiều năm.

Một ngày nọ, ngài đến Benares để lấy muối và giấm. Ngài ở lại trong vườn của nhà vua. Hôm sau, ngài vào kinh thành để khất thực. Khi nhà vua nhìn thấy ngài, vua rất ấn tượng trước phong thái điềm tĩnh của ngài. Nhà vua mời ngài vào, đãi ngài ăn, rồi sau đó yêu cầu ngài ở lại trong vườn thượng uyển. Nhà vua đến thăm ngài mỗi ngày.

Mỗi ngày, Bồ-tát đều khuyên bảo nhà vua: “Một vị vua tốt phải trị vì bằng chánh nghĩa. Tránh làm điều ác. Hãy kiên nhẫn, tử tế và từ bi.” Nhà vua rất thích lời khuyên này đến nỗi đã đề nghị tặng Bồ Tát cả một ngôi làng, nơi sẽ mang lại nguồn thu nhập lớn. Nhưng Bồ Tát từ chối.

Ngài sống ở đó mười hai năm. Rồi ngài nghĩ: "Ta đã ở đây đủ lâu rồi. Ta sẽ đi và quay lại sau." Ngài chỉ nói với người làm vườn rồi lên đường.

Ngài đến một bến phà trên sông Hằng. Người lái đò ở đó tên là Avariyapita. Ông ta thật ngu ngốc. Ông ta không hiểu giá trị của người trí hay cách điều hành công việc kinh doanh của riêng mình. Ông ta thường đưa người qua sông trước rồi mới đòi tiền. Nhiều người không cho ông ta một xu. Khi ông tranh cãi với họ, họ sẽ la hét hoặc thậm chí đánh ông. Cách làm ngu ngốc của ông ta chỉ mang lại rắc rối cho ông ta thay vì tiền bạc.

Bồ Tát hỏi: "Này hiền hữu, hãy đưa ta sang bờ bên kia."

Người lái đò nói: "Này Hiền giả, ông sẽ trả cho tôi bao nhiêu?"

Bồ Tát nói: "Ta sẽ dạy ông cách gia tăng tài sản, an lạc và đức hạnh của mình."

Người lái đò nghĩ: "Ông ấy sẽ trả thêm cho ta chút tiền", nên đồng ý và đưa ông qua sông. Sau đó, ông hỏi tiền xe.

Bồ Tát nói: "Được rồi. Trước hết, đây là bài học để tăng trưởng của cải: Luôn luôn phải hỏi tiền trước khi đưa người khác qua sông, chứ không phải sau đó. Người ta sẽ đổi ý khi đã sang bờ bên kia."

Người lái đò nghĩ: "Đây chỉ là lời khuyên. Giờ ông ấy sẽ cho ta một thứ gì đó có giá trị."

Nhưng Bồ Tát tiếp tục: "Bây giờ ta sẽ dạy ngươi cách tăng trưởng phúc lợi và đức hạnh." Ngài nói: "Dù ngươi ở đâu - làng mạc, rừng rậm, biển cả hay bờ sông - cũng đừng tức giận."

Sau khi đưa ra lời khuyên này, Bồ Tát nói: "Đây là tất cả những gì ta có thể cho ngươi."

Người lái đò nổi giận. Ông nói: "Chỉ vậy thôi sao? Ta không muốn lời khuyên. Hãy cho ta thứ khác!"

Bồ Tát nói: "Này bạn, ta chẳng còn gì khác nữa."

Người lái đò hét lên: "Vậy tại sao ngươi lại đi thuyền của ta?" Ông ta đẩy Bồ Tát xuống đất, ngồi lên ngực Ngài và đấm vào miệng Ngài.

Trong lúc ông đang làm vậy, vợ ông mang cơm đến. Bà nhìn thấy vị ẩn sĩ và nói: "Này ông chồng, đây là một tu sĩ của triều đình. Đừng đánh ông ta."

Người lái đò càng tức giận hơn và nói: "Ông dám ngăn cản tôi sao?" và ông ta đánh vợ mình. Bà ngã xuống, làm rơi đĩa và sảy thai.

Những người gần đó la hét: "Ông là một tên khốn nạn!" Họ trói ông ta lại và đưa đến gặp nhà vua. Nhà vua đã xét xử và trừng phạt ông ta.

Sau khi kể câu chuyện này, Đức Phật nói: "Các bạn thấy đấy: khi vị ẩn sĩ đưa ra lời khuyên này cho một vị vua thông thái, ông ta được tôn vinh. Nhưng khi ông ta đưa ra lời khuyên tương tự cho một người lái đò ngu ngốc, ông ta bị đánh vào miệng. Lời khuyên phải được đưa ra cho những người xứng đáng."

Sau đó, Đức Phật giải thích từng nhân vật trong hiện tại là ai: người lái đò chính là người trong câu chuyện hôm nay, nhà vua là Ananda, và vị đạo sĩ thông thái chính là Đức Phật.

Khi Đức Phật nói xong, vị sư kể câu chuyện đã đạt đến tầng giác ngộ đầu tiên, sơ quả Nhập Lưu.

.... o ....

J376. Avariya Jātaka -- Wherever you are—whether in a village, forest, by the sea, or on a riverbank—do not be angry.

Summary: A monk is visiting the Buddha when an angry ferryman soaks him with water. In response, the Buddha tells a story about a ferryman who ignored good advice and lost everything he had.

.

The Buddha told this story at Jetavana about a ferryman. This ferryman was foolish and rude. He did not understand the value of the Buddha, the Dhamma, and the Sangha. He was quick-tempered and often behaved violently.

One evening, a monk from the countryside came to the river Aciravati. He wanted to cross so he could visit the Buddha. He said to the ferryman, “Layman, please take me across.”

The ferryman said, “It’s too late. Stay here.”

The monk said, “I cannot stay. Please take me across.”

The ferryman became angry, but he let him into the boat. He handled the boat badly, so water came in and the monk’s robe got wet. It was already dark when they reached the other side. Because of this delay, the monk could not visit the Buddha that day.

The next day, he went to see the Buddha. The Buddha asked when he had arrived. When the monk explained what happened, the Buddha said, “This ferryman is rough not only now, but also in the past. Long ago he bothered wise people as he bothered you.” Then the Buddha told this story from the past.

Long ago, in Benares, Brahmadatta was king. The Bodhisatta was born into a brahmin family. When he grew up, he learned all the arts and later became an ascetic. He lived in the Himalayas on wild fruits for many years.

One day he went to Benares to get salt and vinegar. He stayed in the king’s garden. The next day he went into the city to beg for food. When the king saw him, he was impressed by his calm manner. The king invited him in, fed him, and then asked him to stay in the royal garden. The king visited him every day.

Every day the Bodhisatta advised the king: “A good king must rule with righteousness. Avoid bad actions. Be patient, kind, and compassionate.” The king liked this advice so much that he offered the Bodhisatta a whole village that produced a large income. But the Bodhisatta refused.

He lived there for twelve years. Then he thought, “I have stayed long enough. I will travel and come back later.” He told only the gardener and went on his journey.

He arrived at a ferry on the Ganges. The ferryman there was named Avariyapita. He was foolish. He did not understand the value of wise people or how to run his own business. He would ferry people across first and only afterward ask for payment. Many people gave him nothing. When he argued with them, they would yell at him or even hit him. His foolish method brought him trouble instead of money.

The Bodhisatta asked him, “Friend, please take me to the other side.”

The ferryman said, “Priest, what will you pay me?”

The Bodhisatta said, “I will teach you how to increase your wealth, your well-being, and your virtue.”

The ferryman thought, “He will pay me something extra,” so he agreed and took him across. Then he asked for his fare.

The Bodhisatta said, “Very well. First, here is the lesson for increasing wealth: You should always ask for payment before you take people across, not afterward. People change their minds once they arrive on the other shore.”

The ferryman thought, “This is only advice. Now he will give me something valuable.”

But the Bodhisatta continued, “Now I will teach you how to increase your welfare and virtue.” He told him, “Wherever you are—village, forest, sea, or riverbank—do not be angry.”

After giving this advice, the Bodhisatta said, “This is all I can give you.”

The ferryman became angry. He said, “Is that all? I don’t want advice. Give me something else!”

The Bodhisatta said, “Friend, I have nothing else.”

The ferryman shouted, “Then why did you come in my boat?” He pushed the Bodhisatta onto the ground, sat on his chest, and hit him in the mouth.

While he was doing this, his wife arrived carrying his meal. She saw the ascetic and said, “Husband, this is an ascetic from the king’s court. Don’t hit him.”

The ferryman became even angrier and said, “You dare stop me?” and he struck his wife. She fell, dropped the plate, and miscarried her unborn child.

The people nearby shouted, “You horrible man!” They tied him up and took him to the king. The king judged him and punished him.

After telling this story, the Buddha said, “You see: when the ascetic gave this advice to a wise king, he received honor. But when he gave the same advice to a foolish ferryman, he was struck in the mouth. Advice must be given to suitable people.”

Then the Buddha explained who each character was in the present: the ferryman was the same man in today’s story, the king was Ananda, and the wise ascetic was the Buddha himself.

When the Buddha finished speaking, the monk who had told his story reached the first stage of awakening.

.... o ....

J377. Setaketu Jātaka -- Học tập có thể nâng danh tiếng của một người, nhưng chỉ có giới hạnh tốt mới dẫn đến tự do thực sự.

Tóm tắt: Một nhà sư kiếm sống bất chính. Khi Đức Phật phát hiện ra điều này, Ngài kể câu chuyện về một vị khổ hạnh giả danh, nổi giận với một kẻ cùng đinh, và rồi được dạy rằng vẻ bề ngoài không phản ánh hành vi chân thật.

.

Đức Phật kể câu chuyện này tại Jetavana về một vị sư bất lương. Mặc dù vị sư này đã gia nhập con đường của Đức Phật, ông ta vẫn cố gắng kiếm tiền bằng ba loại thủ đoạn: hỏi xin trực tiếp, bóng gió, và tìm kiếm sự đối đãi đặc biệt.

Các vị sư bàn tán về hành vi của ông ta tại Pháp đường. Họ nói: "Vị sư này đã xuất gia, nhưng ông ta vẫn nói dối và lừa gạt người khác." Khi Đức Phật bước vào và hỏi họ đang nói về điều gì, họ trả lời. Đức Phật nói: "Đây không phải lần đầu tiên ông ta hành xử như vậy. Trước đây ông ta cũng đã từng lừa dối." Rồi Ngài kể câu chuyện này từ rất lâu rồi.

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì Benares, Bồ tát là một vị thầy nổi tiếng. Ngài đã dạy kinh điển cho năm trăm học trò. Học trò lớn tuổi nhất tên là Setaketu. Ông xuất thân từ một gia đình Bà-la-môn miền Bắc và rất tự hào về đẳng cấp của mình.

Một ngày nọ, Setaketu và các học trò khác rời khỏi thành phố và sau đó quay trở lại qua cổng. Ở đó, họ nhìn thấy một người đàn ông thuộc tầng lớp thấp kém. Setaketu hỏi: "Ngươi là ai?" Người đàn ông trả lời: "Ta là một kẻ hạ đẳng."

Setaketu căm ghét ý nghĩ rằng gió chạm vào người kẻ hạ đẳng kia rồi cũng có thể chạm vào mình. Ông nói: "Tránh xa ta ra, đồ hạ đẳng xui xẻo!" Ông nhanh chóng di chuyển sang phía ngược gió, nhưng kẻ hạ đẳng còn di chuyển nhanh hơn và đứng ngược gió với ông. Setaketu lại chửi rủa hắn.

Kẻ hạ đẳng hỏi: "Ngươi là ai?"

Setaketu trả lời: "Ta là một học trò Bà-la-môn."

Kẻ hạ đẳng đáp: "Nếu ngươi thực sự là học trò, thì ngươi có thể trả lời một câu hỏi. Nếu ngươi không trả lời được, ta sẽ đặt ngươi dưới chân ta."

Setaketu cảm thấy tự tin và nói: "Hãy hỏi."

Kẻ hạ đẳng yêu cầu những người xung quanh chứng kiến ​​thử thách. Sau đó, ông hỏi: "Này thanh niên Bà-la-môn, các khu vực (quarters) ở đâu?"

Setaketu trả lời: "Có bốn hướng: đông, tây, nam và bắc."

Người hạ đẳng nói: "Ta không hỏi đường. Ngươi còn chưa biết điều này mà đã khinh thường ta." Rồi hắn nắm lấy vai Setaketu, đè xuống và đặt giữa hai chân hắn.

Các học trò khác thuật lại sự việc với thầy của họ. Thầy hỏi: "Setaketu, có đúng là tên hạ đẳng đã đặt ngươi giữa hai chân hắn không?"

Setaketu đáp: "Vâng, thưa thầy. Hắn nói con không biết "quarters" (các khu nhà), nhưng giờ con biết mình sẽ làm gì với hắn rồi!" Hắn tức giận và chửi rủa tên hạ đẳng.

Thầy bảo: "Đừng tức giận. Tên hạ đẳng rất thông thái. Hắn đang hỏi về một nghĩa khác của từ "quarters". Những gì con chưa thấy, chưa học, chưa hiểu còn lớn hơn nhiều so với những gì con biết."

Sau đó, thầy giải thích cho Setaketu rằng "quarters" cũng có thể có nghĩa là cha mẹ, thầy cô, gia chủ rộng lượng, và mục tiêu cao nhất là thoát khỏi đau khổ.

Ngay cả sau khi được giải thích, Setaketu vẫn xấu hổ và buồn bã. Ông nghĩ, “Ta đã bị đặt dưới chân một kẻ cùng đinh.” Ông rời bỏ vị thầy và đến Taxila. Ở đó, ông học tất cả các nghệ thuật từ một vị thầy nổi tiếng khác.

Sau đó, với sự cho phép của vị thầy, ông đi khắp nơi để học các kỹ năng thực hành. Ông đến một ngôi làng biên giới, nơi có năm trăm nhà khổ hạnh sinh sống. Họ đã cho ông xuất gia, và ông học giáo lý của họ. Tất cả cùng nhau đến Benares.

Ngày hôm sau, họ đến sân cung điện để khất thực. Nhà vua rất ấn tượng trước hành vi của họ và ban cho họ thức ăn và một chỗ ở trong vườn của mình. Một ngày nọ, ông gửi thêm thức ăn và nói rằng ông sẽ đến thăm họ vào buổi tối hôm đó.

Setaketu tập hợp các nhà khổ hạnh và nói, “Nhà vua sắp đến. Nếu chúng ta gây ấn tượng với ngài một lần, chúng ta có thể sống tốt suốt đời. Một số người trong số các ngươi giả vờ thực hành những khổ hạnh cực đoan: nằm trên gai, ngồi bên năm ngọn lửa, ngồi xổm, đu đưa, lặn, hoặc tụng kinh thật to.”

Chính ông ngồi ở cửa với một cái tựa đầu, đặt một cuốn sách bìa đẹp bên cạnh và dạy một vài học trò thông minh. Khi nhà vua đến và thấy tất cả những cảnh khổ hạnh này, ngài nghĩ rằng họ là những bậc thánh nhân. Ngài chào Setaketu và ngồi xuống bên cạnh.

Vị tư tế của hoàng gia cũng có mặt ở đó. Khi thấy hành vi của họ, ngài nghĩ: "Đây không phải là những bậc thánh nhân chân chính." Ngài nói với nhà vua: "Một người có học thức vẫn có thể làm điều sai trái. Ngay cả một người thông thạo nhiều giáo lý cũng không an toàn nếu không có hành vi tốt." Nghe vậy, nhà vua rút lại sự ủng hộ đối với các tu sĩ khổ hạnh.

Setaketu nhận ra vị tư tế đã phá hỏng kế hoạch của họ. Ngài cố gắng tranh luận với vị tư tế, nhưng vị tư tế bình tĩnh đáp lại và giải thích: học thức có thể nâng cao danh tiếng của một người, nhưng chỉ có hành vi tốt mới dẫn đến sự tự do thực sự.

Vị tư tế sau đó đã tước bỏ địa vị của các tu sĩ khổ hạnh. Ngài cho họ trở lại làm cư sĩ, trao cho họ vũ khí và bổ nhiệm họ làm quan trong hoàng gia. Người ta nói rằng đây là nguồn gốc của một nhóm tùy tùng hoàng gia nào đó.

Khi Đức Phật kết thúc câu chuyện, Ngài nói: "Lúc đó Setaketu là vị sư gian lận. Kẻ hạ đẳng là Sāriputta, và tư tế của nhà vua là ta."

.... o ....

J377. Setaketu Jātaka -- Learning can enhance a person’s reputation, but only good conduct leads to true freedom.

Summary: One monk earns his living through dishonest means. When the Buddha discovers this, he tells a story about a false ascetic who was angry with an outcaste and how he was taught that appearances do not reflect true actions.

.

The Buddha told this story at Jetavana about a monk who was dishonest. Even though this monk had joined the Buddha’s path, he still tried to get material things through three kinds of trickery: asking people directly, hinting, and seeking special treatment.

The monks discussed his behavior in the Dhamma Hall. They said, “This monk joined the holy life, but he still lies and deceives others.” When the Buddha entered and asked what they were talking about, they told him. The Buddha said, “This is not the first time he has behaved like this. He was deceitful in the past as well.” Then he told this story from long ago.

Long ago, when Brahmadatta ruled Benares, the Bodhisatta was a famous teacher. He taught sacred texts to five hundred students. The oldest student was named Setaketu. He was from a northern brahmin family and was very proud of his caste.

One day, Setaketu and other students left the city and later came back through the gate. There they saw an outcaste man. Setaketu asked, “Who are you?” The man replied, “I am an outcaste.”

Setaketu hated the thought that wind touching the outcaste’s body might then touch him. He said, “Get away from me, unlucky outcaste!” He quickly moved to the upwind side, but the outcaste moved even faster and stood upwind of him. Setaketu cursed him again.

The outcaste said, “Who are you?”

Setaketu answered, “I am a brahmin student.”

The outcaste replied, “If you really are a student, then you can answer a question. If you cannot answer, I will put you between my feet.”

Setaketu felt confident and said, “Ask.”

The outcaste asked the others around them to witness the challenge. Then he asked, “Young brahmin, what are the quarters?”

Setaketu answered, “There are four directions: east, west, south, and north.”

The outcaste said, “I am not asking about directions. You do not even know this, yet you despise me.” Then he grabbed Setaketu’s shoulder, forced him down, and put him between his feet.

The other students reported this event to their teacher. The teacher asked, “Setaketu, is it true that the outcaste placed you between his feet?”

Setaketu said, “Yes, teacher. He said I didn’t know the quarters, but now I know what I will do to him!” He was angry and insulted the outcaste.

The teacher told him, “Do not be angry. The outcaste is wise. He was asking about another meaning of the word ‘quarters.’ What you have not seen, learned, or understood is far greater than what you know.”

He then explained to Setaketu that “quarters” can also mean parents, teachers, generous householders, and the highest goal of freedom from suffering.

Even after the explanation, Setaketu remained ashamed and upset. He thought, “I was put between an outcaste’s feet.” He left the teacher and went to Taxila. There he learned all the arts from another famous teacher.

Later, with the teacher’s permission, he traveled around learning practical skills. He reached a border village where five hundred ascetics lived. They ordained him, and he learned their teachings. Together they all went to Benares.

The next day, they went to the palace yard to beg. The king was impressed by their behavior and gave them food and a place to stay in his garden. One day he sent more food and said he would visit them that evening.

Setaketu gathered the ascetics and said, “The king is coming. If we impress him once, we can live well for the rest of our lives. Some of you pretend to do extreme practices: lie on thorns, sit by five fires, squat, swing, dive, or chant texts loudly.”

He himself sat at the door with a headrest, placed a fancy-covered book next to him, and taught a few clever pupils. When the king arrived and saw all these displays, he thought they were holy men. He greeted Setaketu and sat beside him.

The king’s family priest was also there. When he saw their behavior, he thought, “These are not true holy men.” He told the king, “A learned person can still do wrong. Even someone who knows many teachings is not safe without good conduct.” Hearing this, the king withdrew his support for the ascetics.

Setaketu realized the priest had ruined their plan. He tried to argue with him, but the priest responded calmly and explained: learning can raise a person’s reputation, but only good conduct leads to true freedom.

The priest then removed the ascetics’ status. He made them laymen again, gave them weapons, and appointed them as royal officers. People say this is the origin of a certain group of royal attendants.

When the Buddha finished the story, he said, “At that time Setaketu was the cheating monk. The outcaste was Sāriputta, and the king’s priest was me.”

.... o ....

J378. Darimukha Jātaka -- hú vui trần tục đều nguy hiểm và tạm thời.

Tóm tắt: Các vị tăng thảo luận về sự xuất gia vĩ đại của Bồ Tát. Đức Phật kể lại câu chuyện về việc Ngài đã từ bỏ vương quốc theo sự hướng dẫn của người bạn sinh cùng năm, người đã trở thành một vị Phật Độc Giác.

.

Đức Phật kể câu chuyện này tại Tinh xá Kỳ Viên. Đó là về sự Từ bỏ Vĩ đại — đêm mà ngài từ bỏ cuộc sống hoàng gia để tìm kiếm giác ngộ. Sự kiện dẫn đến câu chuyện này đã được kể trước đó.

Vào đêm trăng tròn của tháng Āsāḷha (khoảng tháng 7), vị Phật tương lai quyết định từ bỏ vương quốc của mình. Ngài bỏ cuộc dễ dàng như người ta nhổ nước bọt. Ngài rời thành phố với vinh dự lớn.

Người ta nói rằng các vị cõi trời đã mang theo sáu mươi ngàn ngọn đuốc ở phía trước, phía sau và hai bên, thắp sáng con đường của ngài khi ngài đi.

Với ánh sáng rực rỡ xung quanh, Bồ Tát đã đi qua ba vương quốc trong một đêm. Sau khi đi khoảng ba mươi dặm, ngài đến một con sông tên là Anomā.

Ngài hỏi người đánh xe Channa: "Con sông này tên là gì?"

Channa trả lời: "Thưa ngài, con sông này tên là Anomā."

Bồ Tát nói: "Vậy thì việc chúng ta rời khỏi thế gian cũng sẽ được gọi là Anomā - Rực rỡ." Ngài ấn gót chân để ra hiệu cho con ngựa Kanthaka của mình. Con ngựa nhảy qua con sông rộng lớn chỉ trong một cú nhảy và an toàn đáp xuống bờ bên kia.

Đứng trên bờ cát lấp lánh, Bồ Tát nói với Channa: "Này Channa tốt lành, hãy lấy trang sức và Kanthaka của ta rồi trở về nhà. Ta đang trở thành một người khổ hạnh."

Channa cầu xin, "Thưa ngài, xin cho con cũng được trở thành tu sĩ."

Nhưng Bồ Tát đã từ chối ba lần. Ngài trao cho Channa đồ trang sức và con ngựa.

Lúc đó, Bồ Tát nghĩ: "Tóc ta không thích hợp cho người xuất gia. Không ai khác được phép cắt tóc cho một vị Phật tương lai. Ta sẽ tự cắt nó." Ngài lấy thanh kiếm của mình, tay trái giữ tóc đã buộc lại và cắt đứt. Tóc ngài sau đó vẫn dài hai inch trong suốt quãng đời còn lại, xoăn sang phải. Bộ râu của ngài cũng giữ nguyên độ dài. Ngài không bao giờ cần cạo râu nữa.

Ngài ném mái tóc đã cắt và vương miện hoàng gia lên không trung, nói: "Nếu ta thành Phật, xin hãy ở trên không; nếu không, xin hãy rơi xuống đất."

Tiếp theo, ngài nghĩ: "Những bộ quần áo đẹp đẽ này không phù hợp với một nhà sư." Lúc đó, vị thiên nhân Ghaṭikāra, người đã là bạn của ngài trong kiếp trước vào thời Đức Phật Kassapa, đã đến giúp đỡ. Vì lòng trung thành, ông đã mang theo tám vật dụng cơ bản của một nhà sư: ba chiếc áo cà sa, một bát khất thực, một chiếc dao cạo, một cây kim, một chiếc thắt lưng và một cái lọc nước.

Bồ Tát khoác lên mình chiếc áo cà sa đơn giản của một nhà sư. Ngài lại bảo Channa về nhà và trấn an cha mẹ rằng ngài vẫn an toàn. Channa cúi đầu cung kính và rời đi.

.

Câu chuyện từ kiếp xa xưa

Từ lâu, vua Magadha đã trị vì ở Rājagaha. Bồ Tát sinh làm con trai của vua và được đặt tên là Hoàng tử Brahmadatta. Vào ngày ngài sinh ra, vị tư tế trong gia đình cũng có một người con trai rất đẹp trai. Họ đặt tên cho anh ta là Darīmukha. Hai cậu bé lớn lên là bạn thân.

Khi họ tròn mười sáu tuổi, họ cùng nhau đến Taxila để học tất cả các môn khoa học và nghệ thuật. Sau đó, họ đi du lịch để tìm hiểu phong tục và cách sống của nhiều nơi. Cuối cùng, họ đến Benares và ở trong một ngôi đền.

Ngày hôm sau, họ vào thành để xin ăn. Trong một ngôi nhà, gia đình đã chuẩn bị thức ăn và chỗ ngồi cho các brahmin. Khi thấy hai chàng trai trẻ, họ nghĩ rằng họ là người Bà La Môn nên đã mời họ vào. Họ đặt một tấm vải trắng lên chỗ ngồi của Bồ Tát và một tấm thảm đỏ lên chỗ ngồi của Darīmukha.

Darīmukha thấy vậy và hiểu ý: một ngày nào đó bạn anh sẽ là vua của Benares, còn anh sẽ trở thành chỉ huy quân đội.

Sau khi ăn và nhận thêm thức ăn mang theo, họ đến vườn của nhà vua. Bồ Tát nằm xuống nghỉ ngơi, trong khi Darīmukha ngồi gần bên.

Trong khi đó, vua Benares đã băng hà bảy ngày trước đó. Vì không có người thừa kế, xe ngựa hoàng gia đã được cử đi tìm vị vua tiếp theo. Vào ngày thứ bảy, nó đến khu vườn, với âm nhạc và binh lính bao quanh.

Darīmukha nghe thấy tiếng trống và âm nhạc, nghĩ thầm: "Cỗ xe này đến đón bạn ta. Hôm nay anh ấy sẽ làm vua và phong tôi làm chỉ huy. Nhưng tại sao ta lại nên sống như một người bình thường? Ta sẽ trở thành một ẩn sĩ thay vì vậy." Lặng lẽ, anh ta lén lút rời đi và ẩn nấp.

Các thầy tế trong hoàng gia dừng xe ngựa ở cổng vườn và đi vào trong. Họ thấy Bồ Tát đang nằm trên ghế đá và nhận ra những dấu hiệu trên bàn chân Ngài cho thấy Ngài sẽ trở thành một vị vua vĩ đại. Họ thử lòng dũng cảm của ngài bằng cách làm cho tất cả các nhạc cụ phát ra âm thanh lớn. Ngài bình tĩnh tỉnh dậy, ngồi dậy và chấp nhận ngai vàng. Họ đã đội vương miện cho ngài ở đó trong khu vườn.

Trong sự phấn khích, ngài quên hết về Darīmukha.

Vị vua mới đi qua thành phố bằng xe ngựa hoàng gia, sau đó vào cung điện. Trong khi đó, Darīmukha trở lại khu vườn trống rỗng. Một chiếc lá khô rơi trước mặt anh ta. Nhìn thấy cảnh đó, ông hiểu được bản chất của sự suy tàn và cái chết. Ông nhận ra sự thật về tính vô thường và đạt đến trạng thái của một Bích Chi Phật (Độc Giác Phật) — một vị Phật tự mình giác ngộ nhưng không thuyết pháp được rộng rãi.

Trong khoảnh khắc đó, bản sắc gia đình của vị này biến mất. Bát và áo cà sa của nhà sư từ trên trời rơi xuống và gắn vào người ông. Vị này bay qua không trung đến Hang Nandamūla ở dãy Himalaya.

Bồ Tát cai trị một cách khôn ngoan. Nhưng vinh quang của vương quyền đã khiến anh quên Darīmukha trong suốt bốn mươi năm. Rồi đột nhiên chàng nhớ đến anh ta và thường hỏi: "Bạn Darīmukha của tôi đâu rồi?" Thêm mười năm nữa trôi qua như vậy.

Darīmukha, giờ đã là một vị Phật Độc Giác trong năm mươi năm, nhận ra người bạn cũ của mình đang nghĩ về ông. Vị này suy nghĩ: "Bạn tôi giờ đã già, lại có gia đình đông con. Tôi sẽ đến dạy Pháp cho anh ấy và giúp anh ấy từ bỏ thế tục."

Vị này bay lượn trên không và đáp xuống khu vườn của nhà vua, bình tĩnh ngồi trên ghế đá. Người làm vườn hỏi vị này là ai, và khi biết đó là Darīmukha, anh ta đã đi báo cho nhà vua.

Nhà vua vui vẻ vội vã đến khu vườn cùng toàn bộ tùy tùng của mình. Vua chào Darīmukha nồng nhiệt và ngồi xuống bên cạnh ông.

Darīmukha hỏi nhà vua xem ông có cai trị công bằng không và khuyến khích ông tránh làm hại người dân. Sau đó ông nói: "Brahmadatta, ngươi đã già rồi. Đã đến lúc từ bỏ những thú vui xác thịt và trở thành một người tu khổ hạnh." Rồi Ngài giảng Pháp.

Nhà vua thừa nhận rằng ông vẫn còn ham muốn thú vui và không thể trở thành tu sĩ, mặc dù ông biết rằng những thú vui trần thế là nguy hiểm và tạm thời.

Darīmukha không từ bỏ anh ta. Ông giải thích về những nguy hiểm của dục vọng, sự đau khổ tìm thấy trong sinh và tồn tại, và vòng luân hồi vô tận của những người bám víu vào cuộc sống trần tục.

Sau khi dạy cho vua sự thật, Darīmukha bay lên không trung như một con ngỗng vàng và trở về hang của mình ở dãy Himalaya.

Vị vua cúi đầu sâu khi người bạn của ông biến mất. Sau đó, ông trở về cung điện, gọi người con trai cả đến, trao lại vương quốc cho con và từ bỏ cuộc sống trần tục. Nhiều người đã khóc khi ông rời đi.

Ông ấy đã đến dãy Himalaya, dựng một túp lều lá đơn giản và trở thành một ẩn sĩ. Chẳng bao lâu sau, ông đạt được những năng lực tâm linh cao cả và khi chết, được tái sinh vào cõi Phạm Thiên.

Khi Đức Phật kể xong câu chuyện này, nhiều vị tỳ kheo đã đạt đến Nhập lưu, Giai đoạn Giác ngộ đầu tiên. Đức Phật nói: "Lúc đó, nhà vua chính là ta."

.... o ....

J378. Darimukha Jātaka -- Worldly pleasures are risky and temporary.

Summary: The monks discuss the Bodhisatta’s Great Renunciation. The Buddha recounts a story in which he previously renounced a kingdom following the guidance of his consort, who had become a Paccekabuddha.

.

The Buddha told this story at Jetavana. It was about the Great Renunciation — the night when he left his royal life to seek enlightenment. The event that led to this story had been told before.

On the full-moon night of the month of Āsāḷha (around July), the future Buddha decided to give up his kingdom. He gave it up as easily as someone spits out saliva. He left the city with great honor.

It is said that heavenly beings (Devas) carried sixty thousand torches in front of him, behind him, and on both sides, lighting his path as he traveled.

With this great brightness around him, the Bodhisatta traveled through three kingdoms in one night. After traveling about thirty leagues, he reached a river called Anomā.

He asked his charioteer Channa, “What is this river called?”

Channa answered, “My lord, this river is called Anomā.”

The Bodhisatta said, “Then our leaving the world will also be called Anomā — Illustrious.” He pressed his heel to signal his horse Kanthaka. The horse jumped across the wide river in a single leap and landed safely on the far shore.

Standing on the shining sandy bank, the Bodhisatta said to Channa, “Good Channa, take my ornaments and Kanthaka and return home. I am becoming an ascetic.”

Channa begged, “My lord, let me become an ascetic too.”

But the Bodhisatta refused three times. He handed Channa the ornaments and the horse.

Then the Bodhisatta thought, “My hair is not suitable for someone who leaves the world. No one else should cut the hair of a future Buddha. I will cut it myself.” He took his sword, held the tied-up hair in his left hand, and cut it off. His hair then remained two inches long for the rest of his life, curling to the right. His beard stayed the same length too. He never needed to shave again.

He threw the cut hair and the royal crown into the air, saying, “If I am to become a Buddha, let it stay in the air; if not, let it fall to the ground.”

Next, he thought, “These fine garments are not right for a monk.” At that moment, the deva Ghaṭikāra, who had been his friend in a previous life during the time of Kassapa Buddha, came to help. Out of loyalty, he brought the eight basic items of a monk: three robes, an alms bowl, a razor, a needle, a belt, and a water strainer.

The Bodhisatta put on the simple robes of a monk. He told Channa again to go home and reassure his parents that he was safe. Channa bowed respectfully and left.

The Story from the Past

Long ago, the king of Magadha ruled in Rājagaha. The Bodhisatta was born as his son and was named Prince Brahmadatta. On the day he was born, the family priest also had a son who was very handsome. They named him Darīmukha. The two boys grew up as close friends.

When they turned sixteen, they went together to Taxila to study all the sciences and arts. After that, they traveled to learn the customs and ways of many places. Eventually, they arrived in Benares and stayed in a temple.

The next day, they went into the city for alms. In one house, the family had prepared food and seats for brahmins. When they saw the two young men, they thought they were brahmins and invited them in. They placed a white cloth on the Bodhisatta’s seat and a red rug on Darīmukha’s seat.

Darīmukha saw this and understood the meaning: one day his friend would be king of Benares, and he himself would become the commander of the army.

After eating and receiving more food to take with them, they went to the king’s garden. The Bodhisatta lay down to rest, while Darīmukha sat near him.

Meanwhile, the king of Benares had died seven days earlier. Since there was no heir, the royal carriage had been sent out to look for the next king. On the seventh day, it arrived at the garden, with music and soldiers surrounding it.

Darīmukha heard the sound of drums and music and thought, “This carriage is coming for my friend. He will be king today and make me commander. But why should I live as a layman? I will become an ascetic instead.” Silently, he slipped away and hid.

The royal priests stopped the carriage at the garden gate and came inside. They saw the Bodhisatta lying on the stone seat and recognized the marks on his feet that showed he was destined to be a great ruler. They tested his courage by making all the instruments sound loudly. He woke up calmly, sat up, and accepted the throne. They crowned him there in the garden.

In the excitement, he forgot all about Darīmukha.

The new king rode through the city in the royal carriage and then entered the palace. Meanwhile, Darīmukha returned to the empty garden. A dry leaf fell before him. Seeing it, he understood the nature of decay and death. He realized the truth of impermanence and attained the state of a Paccekabuddha — a Buddha who awakens by himself but does not teach the path widely.

In that moment, his household identity disappeared. A monk’s bowl and robes appeared from the sky and attached themselves to him. He flew through the air to Nandamūla Cave in the Himalayas.

The Bodhisatta ruled wisely. But the glory of kingship made him forget Darīmukha for forty years. Then he remembered him suddenly and often asked, “Where is my friend Darīmukha?” Another ten years passed like this.

Darīmukha, now a Paccekabuddha for fifty years, realized his old friend was thinking of him. He thought, “My friend is old now, with a big family. I will go teach him the Dhamma and help him renounce the world.”

He flew through the air and landed in the king’s garden, sitting calmly on the stone seat. The gardener asked who he was, and when he learned it was Darīmukha, he went to tell the king.

The king joyfully hurried to the garden with his whole retinue. He greeted Darīmukha warmly and sat down beside him.

Darīmukha asked the king if he ruled righteously and encouraged him to avoid harming the people. Then he said, “Brahmadatta, you are old. It is time to give up sensual pleasures and become an ascetic.” He taught the Dhamma.

The king admitted he was still attached to pleasures and could not become a monk, even though he knew worldly pleasures were risky and temporary.

Darīmukha did not give up on him. He explained the dangers of desire, the suffering found in birth and existence, and the endless cycle of rebirth for those who cling to worldly life.

After teaching him the truth, Darīmukha rose into the air like a golden goose and returned to his cave in the Himalayas.

The king bowed deeply as his friend vanished. Then he returned to the palace, called his eldest son, handed the kingdom to him, and left the worldly life. Many people wept as he left.

He went to the Himalayas, built a simple leaf hut, and became an ascetic. Soon he attained high spiritual powers and, at death, was reborn in Brahma’s Realm.

When the Buddha finished telling this story, many monks reached the First Stage of Awakening. The Buddha said, “At that time, the king was myself.”

.... o ....

.

J379. Neru Jātaka -- Người trí từ chối ở lại dù chỉ một ngày giữa những kẻ không hiểu biết thiện ác.

Tóm tắt: Một nhà sư đức hạnh đến ở tại một ngôi làng nọ, nhưng dân làng bỏ rơi ngài để theo các giáo phái khác. Đức Phật kể một câu chuyện về hai con chim vàng không chịu ở lại trên núi Tu Di, khiến tất cả các loài chim đều trông như vàng, vì nó không phân biệt màu sắc khi tỏa sáng.

.

Đức Phật kể câu chuyện này tại Kỳ Viên về một vị sư nọ. Vị sư này đã nhận được chỉ dạy thiền định từ Đức Phật. Sau đó, ông đến sống tại một ngôi làng nhỏ ở biên giới.

Người dân ở đó rất quý mến sự điềm tĩnh và cung kính của nhà sư. Họ cúng ngài thức ăn, dựng cho ngài một túp lều nhỏ trong rừng và mời ngài ở lại. Họ đối xử với ngài rất tôn kính.

Nhưng sau đó, những vị thầy ngoại giáo mới đến - những vị này dạy rằng vật chất là vĩnh cửu. Dân làng rời bỏ vị sư và đi theo những vị thầy đó. Chẳng bao lâu sau, họ lại bỏ những vị thầy đó và đi theo một nhóm khác dạy rằng không có kiếp sau. Sau đó, họ cũng rời bỏ họ và đi theo một nhóm khổ hạnh lõa thể. Mỗi khi có một vị thầy mới đến, dân làng lại thay đổi tín ngưỡng của mình.

Vị sư cảm thấy rất bất hạnh khi sống giữa những người không phân biệt được giáo lý tốt xấu.

Sau mùa mưa và Lễ thỉnh mời, nhà sư trở về gặp Đức Phật. Nhà sư kể cho Đức Phật nghe nơi ông đã ở và nói rằng ông đã sống giữa những người không biết phân biệt đúng sai.

Đức Phật nói: "Các bậc hiền trí xưa kia đã từ chối ở lại dù chỉ một ngày giữa những kẻ không biết thiện ác. Tại sao ngươi lại ở lại lâu như vậy?" Rồi Ngài kể câu chuyện này từ quá khứ.

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Benares, Bồ-tát sinh ra là một con ngỗng vàng. Ngài sống với em trai trên núi Cittakūṭa và ăn lúa hoang ở dãy Himalaya.

Một ngày nọ, khi đang bay về nhà, họ nhìn thấy ngọn núi vàng tên là Neru. Họ đáp xuống đỉnh núi.

Quanh ngọn núi này có rất nhiều loài chim và thú sinh sống. Vì ngọn núi sáng lấp lánh như vàng, nên bất kỳ sinh vật nào sống ở đó cũng nhanh chóng trở nên vàng óng.

Ngỗng con nhìn thấy điều này và tự hỏi tại sao tất cả các loài vật đều trông giống nhau - dù chúng cao quý hay thấp kém, mạnh mẽ hay yếu đuối. Ngài hỏi anh trai mình nguyên nhân nào gây ra điều này.

Bồ-tát giải thích: "Đây là núi Neru. Mọi thứ ở đây trông đẹp đẽ là nhờ ánh sáng vàng của ngọn núi."

Nhưng ngỗng con đã nhận ra một điều quan trọng. Ngài nghĩ: “Một nơi mà thiện và ác xuất hiện đồng nhất thì không phải là nơi dành cho người trí.” Ngài nói rằng khi một nơi không tôn vinh những người xứng đáng được tôn vinh và đối xử bình đẳng với người ngu và người trí, thì người tốt không nên ở lại đó.

Vì vậy, hai con ngỗng ngay lập tức bay đi và trở về núi Cittakūṭa, nơi mọi thứ đều như ý muốn.

Sau khi kể câu chuyện, Đức Phật giảng dạy Tứ Diệu Đế cho các vị tỳ kheo. Khi Ngài giảng xong, vị tỳ kheo đã ở lại ngôi làng ngu si đã đạt đến tầng giác ngộ đầu tiên, sơ quả Nhập Lưu.

Đức Phật sau đó giải thích: “Con ngỗng nhỏ hơn là A Nan, và con ngỗng lớn hơn là chính ta.”

.... o ....

J379. Neru Jātaka -- Wise beings refused to stay even a single day among those who did not understand good and evil.

Summary: A virtuous monk goes to stay in a village, but the villagers abandon him in favor of the sectarians. The Buddha tells a story about two golden birds that would not stay on Mount Meru, which caused all the birds to appear golden, as it made no distinction in casting its luster.

.

The Buddha told this story at Jetavana about a certain monk. This monk had received meditation instructions from the Buddha. Afterward, he went to live in a small border village.

The people there liked his calm and respectful behavior. They gave him food, built a small hut for him in the forest, and asked him to stay. They treated him with great honor.

But later, new teachers arrived—teachers who taught that matter is permanent. The villagers left the monk and followed those teachers. Soon after, they abandoned those teachers and followed another group who taught there is no afterlife. Later they left them too and followed a group of naked ascetics. Each time a new teacher came, the villagers changed their beliefs.

The monk felt very unhappy living among people who could not tell good teachings from bad ones.

After the rainy season and the Invitation Ceremony, he returned to the Buddha. He told the Buddha where he had stayed and said he had lived among people who did not know right from wrong.

The Buddha said, “Wise beings in the past refused to stay even one day among those who did not know good and evil. Why did you stay so long?” Then he told this story from the past.

Long ago, when Brahmadatta was king in Benares, the Bodhisatta was born as a golden goose. He lived with his younger brother on Mount Cittakūṭa and fed on wild rice in the Himalayas.

One day, while flying home, they saw the golden mountain called Neru. They landed on its peak.

Around this mountain lived many kinds of birds and animals. Because the mountain shone like gold, any creature living there soon looked golden too.

The younger goose saw this and wondered why all the animals looked the same—whether they were noble or low, strong or weak. He asked his older brother what caused this.

The Bodhisatta explained, “This is Mount Neru. Everything here looks beautiful because of the mountain’s golden light.”

But the younger goose realized something important. He thought, “A place where good and bad appear the same is not a place for the wise.” He said that when a place does not honor those who deserve honor and treats the foolish and the wise as equal, the good should not stay there.

So the two geese immediately flew away and returned to Mount Cittakūṭa, where things were as they should be.

After telling the story, the Buddha taught the monks the Four Noble Truths. When he finished, the monk who had stayed in the foolish village reached the first stage of awakening.

The Buddha then explained: “The younger goose was Ānanda, and the older goose was myself.”

.... o ....

J380. Asanka Jātaka -- Chuyện thiếu nữ sinh trong hoa sen.

Tóm tắt: Một nhà sư dần dần sa ngã dưới ảnh hưởng của người vợ cũ. Đức Phật kể câu chuyện về một vị vua đã dành ba năm để tìm đoán tên của một cô gái sinh ra từ hoa sen trong vườn của một nhà khổ hạnh và cuối cùng đã cưới nàng làm vợ.

.

Đức Phật kể câu chuyện này tại Jetavana về một vị sư bị người vợ cũ tìm cách cám dỗ về đời.

Một chàng trai trẻ xuất thân từ một gia đình danh giá ở Sāvatthi nghe Đức Phật thuyết giảng. Anh tin rằng không thể sống một cuộc sống tâm linh hoàn toàn thanh tịnh khi ở nhà, nên anh quyết định xuất gia. Anh trao nhà cửa, tài sản cho vợ con và xin Đức Phật cho xuất gia.

Sau khi xuất gia, anh gặp nhiều khó khăn. Vì còn trẻ và ít kinh nghiệm, anh hiếm khi có được một chỗ ngồi đàng hoàng khi đi khất thực. Anh chỉ nhận được thức ăn kém chất lượng - cháo loãng, cơm cũ, giá cháy - chỉ đủ sống sót qua ngày. Vì vậy, nhà sư trở về nhà cũ. Vợ cũ của sư kính cẩn đón lấy bát của anh, đổ thức ăn ra và dâng cho anh những món ăn ngon, được nấu chín kỹ. Anh trở nên gắn bó với điều này và bắt đầu thường xuyên trở về. Anh không ngừng nghĩ về những món ăn ngon và sự chăm sóc mà cô đã dành cho anh.

Người vợ cũ muốn thử xem anh có còn yêu cô không. Một hôm, nàng bày sẵn một cảnh trong nhà: nàng mời dân làng, sai người hầu chuẩn bị xe ngựa trước cửa, rồi ngồi vào nhà làm bánh. Khi nhà sư đến, nàng cung kính chào hỏi và lại cho ngài ăn, nhưng rồi lại nói: “Giờ ngài đã là bậc thánh rồi. Nhưng chúng con không thể sống ở đây nếu không có đàn ông trong nhà. Con sẽ chuyển đến vùng quê xa xôi. Xin hãy tha thứ cho con nếu con có làm sai.”

Nghe vậy, nhà sư cảm thấy đau lòng. Ngài nói: “Ta không thể rời xa nàng. Đừng đi. Ta sẽ trở về đời sống cư sĩ. Hãy chuẩn bị y phục cho ta. Ta sẽ từ bỏ y phục tu sĩ và trở về với nàng.” Nàng đồng ý.

Nhà sư đến chùa, trả lại bát y, rồi nói với các nhà sư khác rằng mình trở về đời sống thế tục vì không thể xa vợ.

Đức Phật hiểu rằng nhà sư đang đau khổ vì nhớ nhung vợ mình. Ngài nói với nhà sư: “Người đàn bà này từng làm hại ngươi. Trước đây, vì nàng mà ngươi đã bỏ cả một đạo quân và chịu khổ ba năm trên núi.” Và Đức Phật kể một câu chuyện từ quá khứ.

Câu chuyện từ quá khứ

Ngày xưa, khi Brahmadatta làm vua xứ Benares, Bồ Tát sinh ra là một bà la môn. Sau khi học tập tại Taxila, ngài trở thành một nhà khổ hạnh trên dãy Himalaya và sống bằng rễ cây và trái cây.

Lúc bấy giờ, một chúng sinh với công đức lớn từ cõi trời Ba Mươi Ba đã sinh ra là một bé gái trong một bông sen giữa hồ. Khi những bông sen khác tàn lụi, chỉ còn lại một bông sen đứng vững. Nhà khổ hạnh tìm thấy nó, mở bông sen ra và phát hiện ra cô bé. Ngài nuôi nấng cô bé như con gái và đặt tên là Āsaṅkā.

Khi cô bé mười sáu tuổi, cô bé vô cùng xinh đẹp. Sakka, vua của các vị cõi trời, đã đến thăm Bồ Tát, trông thấy cô bé và tạo cho cô một cung điện pha lê với thức ăn và quần áo. Cung điện bay lên không trung khi cô bé ở trong đó và hạ xuống khi cô bé ra ngoài. Cô bé đã phục vụ Bồ Tát một cách trung thành.

Một ngày nọ, một người đi rừng nhìn thấy nàng và sau đó thuật lại cho vua Benares về nhan sắc tuyệt trần của nàng. Nhà vua say mê nàng. Ngài dẫn toàn bộ quân đội của mình du hành vào dãy Hy Mã Lạp Sơn, đến gặp Bồ Tát và xin cưới nàng làm vợ.

Bồ Tát không trực tiếp gả nàng cho. Thay vào đó, ngài nói: "Nếu nhà vua đoán được tên nàng, Bệ hạ có thể lấy nàng làm vợ." Ngài không tiết lộ tên.

Nhà vua và các quan đại thần ở lại đó cố gắng đoán tên nàng. Họ đã thử nhiều tên, nhưng Bồ Tát đều từ chối tất cả. Họ ở lại đó cả năm. Trong thời gian này, quân đội phải chịu đựng thú dữ, giá lạnh, côn trùng và bệnh tật.

Nhà vua cố gắng rời đi, nhưng mỗi lần cô gái lại xuất hiện bên cửa sổ cung điện và nói chuyện với ngài, khuyến khích ngài tiếp tục đoán tên nàng và đừng bỏ cuộc. Nàng kể cho ngài nghe những câu chuyện kiên nhẫn và thuyết phục ngài ở lại. Ngài ở lại thêm một năm, rồi một năm nữa, thử một trăm cái tên cùng một lúc, tổng cộng là ba năm.

Cuối cùng, sau ba năm, nhà vua quyết định bỏ cuộc. Vua nói rằng mình đã lãng phí binh lính, vật liệu quân dụng và thời gian. Vua nói với nàng rằng mình sẽ rời đi. Nhưng khi đang nói, ông vua vô tình nhắc đến tên nàng là "Āsaṅkā" mà không hề hay biết. Nàng nói với nhà vua: "Ngài đã nhắc đến tên thiếp. Hãy đi nói với cha của thần thiếp."

Nhà vua trở về gặp Bồ Tát và nói: "Tên nàng là Āsaṅkā."

Bồ Tát đáp: "Vì giờ ngài đã biết tên nàng, ngài có thể mang nàng theo." Cô gái xin phép vua cha và rời đi.

Nhà vua đưa nàng đến Benares, kết hôn với nàng và sống hạnh phúc với nàng, có rất nhiều con trai và con gái. Bồ Tát tiếp tục cuộc sống tâm linh của mình và được tái sinh vào cõi Phạm Thiên.

Sau khi kể câu chuyện, Đức Phật đã giảng giải Tứ Diệu Đế. Vị tỳ kheo, người đã khao khát vợ cũ của mình, đã đạt được Sơ quả Nhập Lưu.

Sau đó, Đức Phật xác định các nhân vật: Āsaṅkā là vợ cũ của nhà sư, Nhà vua là chính nhà sư, Nhà khổ hạnh là Đức Phật.

.... o ....

J380. Asanka Jātaka -- The story of the girl born in the lotus flower.

Summary: A monk gradually falls under the influence of his ex-wife. The Buddha tells the story of a king who spent three years trying to discover the name of a girl born from a lotus in the garden of an ascetic and eventually married her.

.

The Buddha told this story at Jetavana about a monk who was tempted by his former wife.

A young man from a good family in Sāvatthi heard the Buddha teach. He believed it was impossible to live a completely pure spiritual life while staying at home, so he decided to become a monk. He gave his home and property to his wife and children and asked the Buddha for ordination.

After becoming a monk, he had a difficult time. Because he was new and junior, he rarely got a proper seat when going for alms. He received only low-quality food—thin gruel, stale rice, burnt sprouts—barely enough to survive. So he went back to his former home. His wife took his bowl respectfully, emptied the food, and gave him delicious, well-cooked dishes. He became attached to this and began returning frequently. He could not stop thinking about the good food and the care she gave him.

His wife wanted to test whether he still loved her. One day she arranged a scene in her house: she invited villagers, had her servants prepare carts at the door, and had herself sit inside cooking cakes. When the monk arrived, she greeted him respectfully and fed him again, but then told him, “You are a holy man now. But we cannot live here without a man in the house. I will move far away to the countryside. Please forgive me if I do wrong.”

Hearing this, the monk felt his heart break. He said, “I cannot leave you. Do not go. I will return to the life of a layman. Prepare clothes for me. I will give up my monk’s robes and come back to you.” She agreed.

He went to the monastery, gave back his bowl and robes, and told the other monks he was returning to worldly life because he could not stay away from his wife.

The Buddha understood that the monk was troubled by longing for his wife. He said to him, “This woman harms you. In the past, because of her, you even gave up a whole army and suffered in the mountains for three years.” And the Buddha told a story from the past.

The Story from the Past

Long ago, when Brahmadatta was king of Benares, the Bodhisatta was born as a brahmin. After studying at Taxila, he became an ascetic in the Himalayas and lived on roots and fruits.

At that time, a being with great merit from the Heaven of the Thirty-Three was born as a baby girl inside a lotus in a lake. When the other lotuses died, that one remained standing. The ascetic found it, opened the lotus, and discovered the girl. He raised her as his daughter and named her Āsaṅkā.

When she grew to sixteen, she was extremely beautiful. Sakka, king of the gods, visited the Bodhisatta, saw the girl, and created for her a crystal palace with food and clothing. The palace rose into the air when she was inside and came down when she exited. She served the Bodhisatta faithfully.

One day, a forester saw her and later told the king of Benares about her great beauty. The king became obsessed with wanting her. He traveled with his entire army into the Himalayas, visited the Bodhisatta, and asked to take the girl as his wife.

The Bodhisatta did not give her directly. Instead, he said, “If you can guess her name, you may take her.” He did not reveal the name.

The king and his ministers stayed there trying to guess the girl’s name. They tried many names, but the Bodhisatta rejected all of them. They stayed for a whole year. During this time, the army suffered from wild animals, cold, insects, and illnesses.

The king tried to leave, but each time the girl appeared at the palace window and spoke to him, encouraging him to continue guessing her name and not give up. She told him patient stories and persuaded him to remain. He stayed another year, then another, trying one hundred names at a time, for a total of three years.

Finally, after three years, the king decided to give up. He said he had wasted his soldiers, supplies, and time. He told her he was leaving. But as he spoke, he accidentally said her name “Āsaṅkā” without realizing it. She told him, “You have spoken my name. Go tell my father.”

The king returned to the Bodhisatta and said, “Her name is Āsaṅkā.”

The Bodhisatta replied, “Since you now know her name, you may take her.” The girl took her father’s permission and left with the king.

The king took her to Benares, married her, and lived happily with her, having many sons and daughters. The Bodhisatta continued his spiritual life and was reborn in the Brahma world.

After telling the story, the Buddha explained the Four Noble Truths. The monk who had been longing for his wife attained the First Level of Enlightenment.

The Buddha then identified the characters: Āsaṅkā was the monk’s former wife, The king was the monk himself, The ascetic was the Buddha.

.... o ....

.

Bình luận