Bản Sanh: truyện 381 tới 390 / Jataka Tales: Stories 381–390
Nguyên bản: Pali
Anh dịch: H.T. Francis, R.A. Neil và Ānandajoti Bhikkhu
Việt dịch và rút ngắn: Nguyên Giác
J381. Migalopa Jātaka -- Những ai chống lại lời khuyên sáng suốt của bậc trưởng lão sẽ thê thảm.
Tóm tắt: Một vị sư mới xuất gia không muốn hoàn thành bổn phận và muốn đi theo con đường riêng. Đức Phật kể một câu chuyện về thời vị kia là một con chim kền kền, đã phớt lờ lời khuyên của các bậc trưởng thượng và cuối cùng phải đối mặt với sự hủy diệt vì cãi lời.
.
Đức Phật kể câu chuyện này tại Jetavana về một nhà sư không giữ giới luật. Ngài hỏi nhà sư: "Con có thực sự là người vô kỷ luật không?"
Nhà sư đáp: "Vâng, thưa Đức Thế Tôn."
Đức Phật đáp: "Đây không phải lần đầu tiên con hành xử như vậy. Từ lâu rồi, vì con không nghe lời khuyên bảo khôn ngoan, nên con đã bị gió Verambha hủy diệt." Rồi Ngài kể câu chuyện này.
Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Benares, Bồ tát đã sinh ra làm một con chim kền kền tên là Aparannagijjha. Ngài sống trên núi Kền kền với nhiều con kền kền khác.
Con trai của ngài, tên là Migalopa, rất khỏe mạnh và có thể bay cao hơn bất kỳ con chim kền kền nào khác. Những con kền kền khác đã thuật lại chuyện này cho nhà vua. Vì vậy, Aparannagijjha gọi con trai mình lại và nói: "Con trai ơi, ta nghe nói con bay quá cao. Điều này rất nguy hiểm. Nếu con bay quá cao, con có thể chết. Con phải quay trở lại khi mặt đất bên dưới trông nhỏ bé như một cánh đồng vuông. Đừng bay cao hơn thế."
Nhưng Migalopa không nghe lời cha. Vì tự hào về sức mạnh của mình, chàng cứ bay ngày càng cao. Chàng bay vượt qua giới hạn an toàn mà cha đã cảnh báo. Chàng thậm chí còn vượt qua cả những cơn Gió Đen. Rồi chàng chạm đến những cơn gió Verambha dữ dội. Khi những cơn gió mạnh đó ập đến, thân thể chàng bị xé toạc và chàng chết giữa không trung.
Vì Migalopa không nghe lời cha, chàng đã tự chuốc lấy tai họa. Vợ con chàng, và cả gia đình chàng cũng đau khổ vì cái chết của chàng.
Vì vậy, bất cứ ai không nghe lời khuyên bảo của các bậc trưởng thượng sẽ gặp họa, giống như con kền kền kiêu ngạo đã bay quá cao kia.
Sau khi kể câu chuyện, Đức Phật giải thích: “Migalopa là vị sư bất kham. Aparannagijjha chính là ta.”
.... o ....
J381. Migalopa Jātaka -- Those who ignore the wise counsel of their elders are destined for downfall.
Summary: A newly ordained monk is reluctant to fulfill his duties and wishes to follow his own path. The Buddha shares a story about a time when he was a vulture who ignored the advice of his elders and ultimately faced destruction because of his disobedience.
.
The Buddha told this story at Jetavana about a monk who did not follow rules. He asked the monk, “Are you really unruly?”
The monk said, “Yes, Lord.”
The Buddha replied, “This is not the first time you have behaved like this. Long ago, because you did not listen to wise advice, you were destroyed by the Verambha winds.” Then he told this old story.
Long ago, when King Brahmadatta ruled in Benares, the Bodhisatta was born as a vulture named Aparannagijjha. He lived on Vulture Mountain with many other vultures.
His son, named Migalopa, was very strong and powerful. He could fly higher than any other vulture. The other vultures told the king about this. So Aparannagijjha called his son and said: “My son, I hear that you fly too high. This is dangerous. If you go too high, you may die. You must turn back when the earth below looks small, like a square field. Do not fly higher than that.”
But Migalopa did not obey his father. Because he was proud of his strength, he kept flying higher and higher. He flew past the safe limit that his father had warned him about. He even passed through the Black Winds. Then he reached the powerful Verambha winds. When those strong winds hit him, his body was torn apart, and he died in the air.
Because Migalopa did not listen to his father’s advice, he brought destruction on himself. His wife, his children, and his whole family also suffered because of his death.
So, anyone who does not listen to the wise words of elders will meet ruin, just like that proud vulture who flew too high.
After telling the story, the Buddha explained: “Migalopa was the unruly monk. Aparannagijjha was myself.”
.... o ....
J382. Sirikalakanni Jātaka -- Mỗi người tự định ra số phận của họ, dù may mắn hay bất hạnh, qua hành động của họ.
Tóm tắt: Anāthapiṇḍika và toàn thể gia đình ông đều siêng giữ gìn giới luật. Đức Phật kể câu chuyện về một thương gia đức hạnh thời xưa, người đã nhận ra sự khác biệt giữa các vị thần của vận rủi và vận may, và tỏ lòng tôn kính vị đức hạnh.
.
Đức Phật kể câu chuyện này tại Jetavana về Anathapindika (Cấp Cô Độc), vị thí chủ hào phóng của Đức Phật. Sau khi Anathapindika đạt được quả vị giác ngộ đầu tiên (sơ quả Nhập Lưu), ông luôn giữ gìn Ngũ Giới một cách hoàn hảo. Vợ, con trai, con gái, thậm chí cả người hầu và người làm công của ông cũng giữ Ngũ Giới mà không hề phạm.
Một hôm, một số nhà sư tụ tập tại Chánh Pháp Đường và bàn tán về việc liệu Anathapindika và toàn thể gia đình ông có thực sự thanh tịnh trong giới hạnh hay không. Đức Phật bước vào và hỏi họ đang bàn luận điều gì. Khi họ nói với Ngài, Ngài nói: "Này các nhà sư, những bậc hiền trí trong quá khứ cũng có gia đình thanh tịnh." Rồi Ngài kể câu chuyện này từ rất lâu rồi.
Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì Benares, Bồ Tát sinh ra là một thương gia. Ngài rất hào phóng, tuân thủ các giới luật và giữ những ngày lễ tôn giáo đặc biệt. Vợ, con trai, con gái, thậm chí cả người hầu và người làm công của ngài cũng đều giữ Ngũ Giới. Vì toàn thể gia đình ông thanh tịnh, nên mọi người gọi ông là Suciparivara, có nghĩa là "thương gia có gia đình thanh tịnh".
Ngài tự nhủ: “Nếu có người đức hạnh hơn ta đến nhà, thì thật không đúng khi để họ ngồi hay ngủ trên đồ đạc ta dùng. Ta nên chuẩn bị một chiếc ghế dài và một chiếc giường sạch sẽ chưa ai dùng.” Vì vậy, ngài đặt một chiếc ghế dài và một chiếc giường mới tinh trong phòng khách.
Lúc bấy giờ, trên cõi trời Tứ Đại Thiên Vương, có hai vị nữ thần đến hồ Anotatta để vui chơi. Tên của họ là Kalakanni, con gái của Vua Virupakkha, và Siri, con gái của Vua Dhatarattha. Mỗi vị đều muốn tắm trước ở hồ, và họ đã tranh cãi về điều đó.
Kalakanni nói: “Ta cai trị thế giới. Ta nên tắm trước.”
Siri nói: “Ta hướng dẫn mọi người sống theo đức hạnh mang lại thành công. Ta nên tắm trước.”
Vì không thể đồng ý, họ đến gặp Tứ Đại Thiên Vương để hỏi xem ai nên tắm trước. Nhưng ngay cả các vị cũng không thể quyết định được. Họ chuyển câu hỏi này, đầu tiên cho hai vị vua khác, rồi cuối cùng là cho Sakka, vua của các vị thần.
Sakka nghĩ: “Hai người này là con gái của chư hầu ta. Ta không nên tự mình quyết định việc này.” Ngài nói: “Ở Benares có một thương gia tên là Suciparivara. Trong nhà ông ta có một chiếc giường và một chiếc ghế dài tinh khiết chưa sử dụng. Ai ngồi hoặc nằm trước thì được tắm trước.”
Nghe vậy, Kalakanni liền mặc y phục màu xanh, xức nước hoa và đeo trang sức màu xanh, rồi từ trên trời lao xuống như một viên đá ném từ máy bắn đá. Ngay sau nửa đêm, nàng xuất hiện trên không trung gần thương gia, người đang nghỉ ngơi trong phòng. Nàng tỏa ra ánh sáng xanh.
Thương gia nhìn nàng, nhưng nàng trông có vẻ khó chịu và không hấp dẫn. Ngài hỏi nàng là ai. Nàng trả lời rằng nàng là Kalakanni, nữ thần của sự bất hạnh, và nàng muốn được ở trong nhà ông.
Thương gia hỏi: “Những người sống cùng nhà với nữ thần như thế nào?”
Kalakanni giải thích rằng nàng sống chung với những người bất lương, vô đạo đức, nóng giận, tham lam, đố kỵ, thô lỗ, ngu ngốc hoặc quá kiêu ngạo, không chịu nghe lời khuyên. Những người như vậy là bạn đồng hành của nàng.
Nghe vậy, Bồ Tát nói: "Kalakanni, nơi này không dành cho ngươi. Hãy rời đi và đi nơi khác."
Kalakanni cảm thấy buồn bã. Nàng nói rằng nàng biết rõ nhà của ngài không phù hợp với nàng, nhưng nàng sẽ mang lại bất hạnh cho những người khác, những người bất cẩn và kiêu ngạo. Rồi nàng biến mất.
Ngay sau khi nàng rời đi, nữ thần Siri xuất hiện. Nàng mặc y phục bằng vàng, thoa dầu thơm bằng vàng và tỏa ra ánh sáng vàng rực rỡ. Nàng đứng cung kính ở cửa ra vào.
Thương gia hỏi nàng là ai. Siri giải thích rằng nàng là nữ thần của may mắn và đức hạnh, con gái của Dhatarattha, và nàng muốn được ở trong nhà của ngài.
Thương gia lại hỏi: "Những người sống cùng ngài như thế nào?"
Siri trả lời rằng nàng sống với những người chăm chỉ, kiên nhẫn, quyết tâm, tốt bụng, hào phóng, trung thực và tôn trọng. Nàng thích những người giúp đỡ người khác, tránh lời nói cay nghiệt và làm điều tốt ngay cả trong những tình huống khó khăn. Nàng trung thành ở bên họ. Nhưng nếu ai đó trở nên ngu ngốc hoặc kiêu ngạo sau khi nhận được phước lành của nàng, nàng sẽ rời bỏ họ.
Nàng cũng nói rằng mỗi người tự tạo ra vận may hoặc vận rủi của riêng mình thông qua hành động của họ.
Khi Bồ Tát nghe những câu trả lời sáng suốt và tốt đẹp của Siri, ngài rất hài lòng. Ngài chỉ cho nàng chiếc giường và chiếc ghế dài thanh tịnh mà ngài đã chuẩn bị và mời nàng ngồi nghỉ ngơi. Nàng ở lại qua đêm và trở về cõi trời vào buổi sáng. Vì nàng đã sử dụng chiếc giường đó, nên nó được gọi là giường Siri, và mọi người vẫn sử dụng cái tên đó cho đến ngày nay.
Sau khi kết thúc câu chuyện, Đức Phật nói: "Lúc bấy giờ, nữ thần Siri là Uppalavanna, và thương gia Suciparivara là ta."
.
.... o ....
J382. Sirikalakanni Jātaka -- Each individual shapes their own destiny, whether fortunate or unfortunate, through their actions.
Summary: Anāthapiṇḍika and his entire household observe the precepts diligently. The Buddha shares a story about a virtuous merchant from the past who recognized the difference between the Devīs of ill fortune and those of good fortune, and showed reverence to the latter.
.
The Buddha told this story at Jetavana about Anathapindika, the generous supporter of the Buddha. After Anathapindika reached the first stage of enlightenment, he always kept the Five Precepts perfectly. His wife, his sons and daughters, and even his servants and workers also kept the Five Precepts without breaking them.
One day, some monks gathered in the Hall of Truth and talked about whether Anathapindika and his whole household were truly pure in their conduct. The Buddha came in and asked what they were discussing. When they told him, he said, “Monks, wise people in the past also had pure households.” Then he told this story from long ago.
A long time ago, when King Brahmadatta ruled Benares, the Bodhisatta was born as a merchant. He was generous, followed the moral rules, and observed special religious days. His wife, his sons and daughters, and even his servants and workers all kept the Five Precepts too. Because his whole household was pure, people called him Suciparivara, which means “the merchant with a pure household.”
He thought to himself, “If someone more virtuous than I comes to my house, it would not be correct to let them sit or sleep on furniture that I use. I should prepare a clean couch and bed that no one has ever used.” So he placed a brand-new couch and bed in his reception room.
At that time, in the Heaven of the Four Great Kings, two goddesses went to enjoy themselves at Lake Anotatta. Their names were Kalakanni, daughter of King Virupakkha, and Siri, daughter of King Dhatarattha. Each wanted to bathe first in the lake, and they argued about it.
Kalakanni said, “I rule the world. I should bathe first.”
Siri said, “I guide people in good conduct that brings them success. I should bathe first.”
Since they could not agree, they went to the Four Kings to ask who should bathe first. But even the kings could not decide. They passed the question along, first to two other kings, then finally to Sakka, the king of the gods.
Sakka thought, “These two are daughters of my vassals. I should not decide this myself.” So he said, “In Benares there is a merchant named Suciparivara. In his house is a pure and unused couch and bed. Whoever sits or lies there first is the one who deserves to bathe first.”
When Kalakanni heard this, she immediately dressed in blue clothing, put on blue perfumes and blue jewels, and shot down from heaven like a stone thrown from a catapult. Just after midnight, she appeared in the air near the merchant, who was resting in his chamber. She shone with a blue light.
The merchant looked at her, but she appeared unpleasant and unattractive to him. He asked who she was. She replied that she was Kalakanni, the goddess of misfortune, and she wanted a place in his house.
The merchant asked, “What are the people like who live with you?”
Kalakanni explained that she stayed with people who were dishonest, immoral, angry, greedy, jealous, rude, foolish, or too proud to listen to advice. Such people were her companions.
Hearing this, the Bodhisatta said, “Kalakanni, this is not a place for you. Leave and go somewhere else.”
Kalakanni felt sad. She said she knew very well that his home was not suitable for her, but she would bring misfortune to other people who were careless and proud. Then she disappeared.
Soon after she left, Siri the goddess arrived. She wore golden clothing, used golden ointments, and shone with bright yellow light. She stood respectfully at the doorway.
The merchant asked who she was. Siri explained that she was the goddess of good fortune and virtue, the daughter of Dhatarattha, and she wanted a place in his home.
The merchant again asked, “What are the people like who live with you?”
Siri answered that she lived with people who were hard-working, patient, determined, kind, generous, honest, and respectful. She liked people who helped others, avoided harsh speech, and did good even in difficult situations. She stayed with them faithfully. But if someone became foolish or arrogant after receiving her blessings, she would leave them.
She also said that each person creates their own good or bad fortune through their actions.
When the Bodhisatta heard Siri’s wise and good answers, he was very pleased. He showed her the pure couch and bed he had prepared and invited her to sit and rest there. She stayed for the night and returned to her heavenly realm in the morning. Because she had used that bed, it became known as the Siri-bed, and people still use that name today.
After finishing the story, the Buddha said, “At that time, the goddess Siri was Uppalavanna, and the merchant Suciparivara was myself.”
.... o ....
J383. Kukkuta Jātaka -- Nghe lời nịnh hót dối trá chỉ mang lại đau khổ.
Tóm tắt: Một nhà sư đối mặt với nguy cơ đánh mất quyết tâm khi nhìn thấy một phụ nữ. Để minh họa điều này, Đức Phật kể câu chuyện về một con mèo đã ăn thịt rất nhiều gà và cố gắng dụ dỗ con gà cuối cùng xuống khỏi cây bằng lời hứa kết hôn, nhưng bị từ chối.
.
Đức Phật kể câu chuyện này tại Jetavana về một vị sư đang suy nghĩ về việc trở về thế gian. Đức Phật hỏi ông: "Tại sao ông lại khao khát thế gian?" Vị sư trả lời: "Bạch Đức Thế Tôn, con cảm thấy ham muốn vì con thấy một người phụ nữ ăn mặc đẹp đẽ."
Đức Phật nói: "Này các sư, phụ nữ cũng giống như loài mèo. Họ có thể lừa dối và nịnh hót người khác cho đến khi họ kiểm soát được người đó, và rồi người đó sẽ phải chịu đau khổ." Rồi Đức Phật kể một câu chuyện từ rất lâu rồi.
Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Benares, Bồ Tát sinh ra là một chú gà trống. Ngài sống trong rừng với hàng trăm chú gà trống khác.
Gần đó có một con mèo cái. Nó rất thông minh và xảo quyệt. Nó lừa gạt tất cả những chú gà trống khác, ngoại trừ Bồ Tát, và nó ăn thịt từng con một. Nhưng Bồ Tát quá khôn ngoan để mắc bẫy nó.
Mèo nghĩ: “Con gà trống này rất thông minh, nhưng nó không biết ta thông minh đến thế nào. Ta sẽ giả vờ yêu nó. Ta sẽ nói với nó rằng ta muốn làm vợ nó. Khi nó đến gần, ta sẽ giết nó và ăn thịt nó.”
Thế là nó đi xuống gốc cây nơi Bồ Tát đang đậu, ngước nhìn ngài và bắt đầu nịnh hót ngài. Nó khen ngợi bộ lông tuyệt đẹp của ngài và nói những lời ngọt ngào, nói rằng nó muốn làm vợ ngài và mời ngài xuống.
Bồ Tát nghĩ: “Nó đã ăn hết họ hàng của ta rồi. Giờ nó lại định lừa ta nữa. Ta phải tống khứ nó đi.” Ngài đáp: “Thưa bà, bà có bốn chân, còn tôi chỉ có hai chân. Động vật và chim chóc không thể lấy chồng. Hãy đi tìm người khác đi.”
Nhưng mèo vẫn không bỏ cuộc. Nó nghĩ: “Nó rất thông minh, nhưng ta sẽ thử những trò mới.” Nó lại nói, hứa hẹn với ngài tuổi trẻ, sắc đẹp, những lời ngọt ngào và sự vâng lời. Nó nói rằng ngài có thể đối xử với nó như một người vợ đáng kính hoặc thậm chí là một người hầu - bất cứ điều gì ngài muốn.
Bồ Tát nhận ra rằng con mèo sẽ tiếp tục cố gắng trừ khi Ngài chấm dứt chuyện này một cách rõ ràng. Vì vậy, Ngài nói: "Ngươi đã uống máu của gia đình ta và giết chết họ. Ngươi nói mình là một người vợ đáng kính, nhưng trong lòng ngươi chẳng có chút danh dự hay lòng tốt nào. Ta sẽ không dính líu gì đến ngươi."
Nghe những lời này, con mèo xấu hổ bỏ chạy. Nó không bao giờ dám đến gần Ngài nữa.
Đức Phật nói: "Cũng giống như vậy, phụ nữ đôi khi cố gắng cám dỗ một người có vẻ mạnh mẽ hoặc tốt bụng, giống như con mèo cố gắng cám dỗ con gà trống."
Sau đó, Ngài ban thêm những lời dạy. Khi Ngài giảng xong Tứ Diệu Đế, vị sư đang đấu tranh với dục vọng đã đạt đến tầng giác ngộ đầu tiên, sơ quả Nhập .
Đức Phật kết thúc bằng câu: "Lúc đó, con gà trống chính là ta."
.... o ....
J383. Kukkuta Jātaka -- Listening to deceitful flattery only brings suffering.
Summary: A monk faces the risk of losing his resolve upon seeing a woman. To illustrate this, the Buddha shares a story about a cat that had devoured many chickens and attempted to entice the last one down from a tree with the promise of marriage, only to be rejected.
.
The Buddha told this story at Jetavana about a monk who was thinking about returning to the worldly life. The Buddha asked him, “Why do you long for the world?” The monk answered, “Lord, I feel desire because I saw a woman who was beautifully dressed.”
The Buddha said, “Monk, women can be like cats. They can deceive and flatter someone until they have control over him, and then that person suffers.” Then the Buddha told a story from long ago.
Long ago, when King Brahmadatta ruled in Benares, the Bodhisatta was born as a rooster. He lived in the forest with hundreds of other roosters.
Nearby lived a female cat. She was clever and tricky. She fooled all the other roosters except the Bodhisatta, and she ate them one by one. But the Bodhisatta was too wise to fall for her tricks.
The cat thought, “This rooster is very smart, but he doesn’t know how clever I am. I will pretend to love him. I will tell him I want to be his wife. When he comes close, I will kill him and eat him.”
So she went to the bottom of the tree where the Bodhisatta perched, looked up at him, and began flattering him. She praised his beautiful feathers and spoke sweetly, telling him that she wanted to be his wife and asking him to come down.
The Bodhisatta thought, “She has already eaten all my relatives. Now she is trying to trick me too. I must get rid of her.” So he answered, “Good lady, you have four legs and I have only two. Animals and birds cannot marry. Go find someone else.”
But the cat would not give up. She thought, “He is very clever, but I will try new tricks.” She spoke again, promising him youth, beauty, sweet words, and obedience. She said he could treat her as an honored wife or even as a servant—whatever he wished.
The Bodhisatta realized she would keep trying unless he ended it clearly. So he said, “You drank the blood of my family and killed them. You speak of being an honored wife, but you have no honor or kindness in your heart. I will have nothing to do with you.”
Hearing these words, the cat fled in shame. She never dared approach him again.
The Buddha said, “In this same way, women sometimes try to tempt someone who seems strong or good, just as the cat tried to tempt the rooster.”
Then he gave additional teachings. When he finished explaining the Four Noble Truths, the monk who had been struggling with desire reached the first stage of enlightenment.
The Buddha ended by saying, “At that time, the rooster was myself.”
.... o ....
J384. Dhammaddhaja-Jataka -- Hãy cẩn thận với những kẻ bất lương giả vờ thánh thiện.
Tóm tắt: Một nhà sư nổi tiếng bất lương. Đức Phật kể câu chuyện về một con quạ giả làm bậc thánh thiện để có cơ hội giết và ăn thịt các loài chim khác, nhưng cuối cùng, nó bị phát hiện và bị giết.
.
Đức Phật kể câu chuyện này tại Jetavana về một vị sư bất lương. Đức Phật nói: “Này các tỳ kheo, người này không phải lần đầu tiên gian dối. Trước đây ông ta đã từng hành xử như vậy.” Rồi Ngài kể một câu chuyện từ rất lâu rồi.
Ngày xa xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Benares, Bồ Tát sinh ra là một con chim. Khi lớn lên, ngài sống cùng nhiều loài chim khác trên một hòn đảo giữa biển khơi.
Một ngày nọ, một số thương gia từ Kasi mang theo một con quạ trong một chuyến hải hành. Con quạ đã đi rất nhiều. Trong chuyến đi, con tàu bị đắm giữa biển khơi. Con quạ sống sót và bay đến hòn đảo nơi các loài chim sinh sống.
Khi con quạ nhìn thấy rất nhiều chim trên đảo, nó nghĩ: “Đây là cơ hội tốt. Ta sẽ lừa những con chim này và ăn trứng và chim non của chúng.” Vì vậy, nó hạ xuống giữa chúng và giả vờ là một vị thánh. Nó đứng trên một chân và há miệng rộng.
Các loài chim hỏi: “Thưa ngài, ngài là ai?”
Ông đáp: "Tôi là một con chim linh thánh."
Họ hỏi: "Tại sao ông chỉ đứng bằng một chân?"
Ông đáp: "Nếu tôi hạ chân kia xuống, cả trái đất sẽ không thể chứa nổi tôi."
Họ hỏi: "Vậy tại sao miệng ông lại há ra?"
Ông đáp: "Tôi không ăn. Tôi chỉ uống gió."
Các loài chim tin ông.
Bấy giờ, con quạ nói: "Hãy nghe tôi thuyết giảng," và bắt đầu nói về đức hạnh và lòng tốt.
Các loài chim rất ấn tượng và nói: "Đây chắc hẳn là một con chim chính trực. Ông ấy dạy những lời thánh thiện khi đứng bằng một chân!"
Vì vậy, chúng tin ông. Chúng nói: "Thưa ngài thánh thiện, vì ngài không ăn gì cả, xin hãy trông nom trứng và chim non của chúng tôi trong khi chúng tôi đi tìm thức ăn."
Khi các loài chim bay đi, con quạ nhanh chóng ăn hết trứng và chim non tùy thích. Khi chúng quay lại, nó lại đứng bằng một chân với miệng há hốc. Các loài chim thấy con mình mất tích nhưng nói: "Con quạ thánh này sẽ không bao giờ làm điều như vậy." Chúng không hề nghi ngờ Ngài.
Chuyện này xảy ra ngày này qua ngày khác.
Nhưng Bồ Tát, vua của các loài chim, nghĩ rằng: "Mọi thứ đều tốt đẹp trước khi con quạ này đến. Có điều gì đó không ổn." Ngài quyết định thử thách con quạ.
Vì vậy, một ngày nọ, Ngài giả vờ bỏ đi cùng các loài chim khác nhưng lại bí mật ở lại, ẩn núp ở một nơi mà Ngài có thể quan sát. Ngay khi những con chim khác bay đi, con quạ bay thẳng đến tổ và bắt đầu ăn trứng và gà con. Sau đó, nó trở lại tư thế của mình - đứng trên một chân và há miệng.
Khi các loài chim trở về, Bồ Tát gọi tất cả lại.
Ngài nói: "Hôm nay ta đã điều tra xem ai đang làm hại con cái chúng ta. Ta đã thấy con quạ độc ác này ăn thịt chúng. Chúng ta phải bắt nó!" Các loài chim vây quanh con quạ để nó không thể trốn thoát.
Vua của các loài chim nói với chúng: "Các ngươi đã khen ngợi hắn một cách ngu ngốc. Hắn nói về đức hạnh, nhưng hành động của hắn lại là xấu xa. Hắn là một kẻ đạo đức giả. Chúng ta hãy tiêu diệt hắn."
Bấy giờ, chim vua dùng mỏ đập mạnh vào đầu con quạ, và tất cả các loài chim khác đều tấn công bằng mỏ, cánh và móng vuốt. Con quạ bị giết chết.
Khi Đức Phật kể xong câu chuyện, Ngài giải thích mối liên hệ: “Lúc bấy giờ, con quạ gian trá chính là vị sư gian trá. Chim vua chính là ta.”
.... o ....
J384. Dhammaddhaja-Jataka -- Beware of deceitful individuals who pretend to be holy.
Summary: One monk was known for cheating. The Buddha shared a story about a crow who pretended to be an ascetic to gain the chance to kill and eat other birds, but eventually, he was discovered and put to death.
.
The Buddha told this story at Jetavana about a monk who was deceitful. The Buddha said, “Monks, this man is not deceitful for the first time. He behaved like this before.” Then he told a story from long ago.
A long time ago, when King Brahmadatta ruled in Benares, the Bodhisatta was born as a bird. When he grew up, he lived with many other birds on an island in the middle of the sea.
One day, some merchants from Kasi brought a crow with them on a sea voyage. The crow had traveled a lot. During the journey, the ship wrecked in the open sea. The crow survived and flew to the island where the birds lived.
When the crow saw so many birds on the island, he thought, “This is a good chance. I will trick these birds and eat their eggs and young ones.” So he came down among them and pretended to be holy. He stood on one foot and opened his mouth wide.
The birds asked, “Who are you, sir?”
He answered, “I am a holy bird.”
They asked, “Why do you stand on only one foot?”
He said, “If I put down the other one, the whole earth would not be able to hold me.”
They asked, “Then why is your mouth open?”
He replied, “I do not eat food. I only drink the wind.”
The birds believed him.
The crow then said, “Listen to my sermon,” and began talking about virtue and goodness.
The birds were impressed and said, “This must be a righteous bird. He teaches holy words while standing on one foot!”
So they trusted him. They said, “Holy sir, since you do not eat anything, please watch over our eggs and young ones while we go to find food.”
When the birds left, the crow quickly ate as many eggs and chicks as he wanted. When they returned, he stood again on one foot with his mouth open. The birds found their children missing but said, “This holy crow would never do such a thing.” They did not suspect him.
This happened day after day.
But the Bodhisatta, the king of the birds, thought, “Everything was fine before this crow arrived. Something is not right.” He decided to test him.
So one day he pretended to leave with the other birds but secretly stayed behind, hiding in a place where he could watch. As soon as the other birds were gone, the crow went straight to the nests and began eating eggs and chicks. Then he returned to his pose—standing on one foot with his mouth open.
When the birds returned, the Bodhisatta called them all together.
He said, “Today I investigated who is harming our children. I saw this wicked crow eating them. We must catch him!” The birds surrounded the crow so he could not escape.
The king of the birds told them, “You praised him foolishly. He talks about virtue, but his actions are evil. He is a hypocrite. Let us destroy him.”
Then the king of the birds struck the crow hard on the head with his beak, and all the other birds attacked with their beaks, wings, and claws. The crow was killed.
When the Buddha finished the story, he explained the connections: “At that time, the deceitful crow was the deceitful monk. The king of the birds was myself.”
.... o ....
J385. Nandiyamiga Jātaka -- Từ bi và thiện tâm là tấm khiên bảo vệ chúng sinh.
Tóm tắt: Một nhà sư phụng dưỡng cha mẹ, và Đức Phật khen ngợi sư vì điều đó. Đức Phật kể một câu chuyện về một con nai làm mồi nhử để bảo vệ cha mẹ. Sau đó, con nai thuyết phục nhà vua ban cho tất cả các loài vật trong vương quốc được lối đi an toàn.
.
Đức Phật kể câu chuyện này tại Jetavana về một vị sư nuôi mẹ. Đức Phật hỏi vị sư: "Có thật là ông giúp đỡ người tại gia không?"
Vị sư trả lời: "Vâng, thưa Đức Thế Tôn - con giúp đỡ cha và mẹ con."
Đức Phật nói: "Tốt lắm! Ông đang đi theo con đường của bậc hiền triết. Ngay cả trong quá khứ, những bậc hiền triết, ngay cả khi sinh ra làm súc sinh, cũng đã hy sinh mạng sống của mình để nuôi dưỡng cha mẹ." Rồi Ngài kể một câu chuyện cổ.
Ngày xưa, khi vua Kosala trị vì thành Saketa, Bồ Tát đã sinh ra làm một con nai. Khi lớn lên, ngài được gọi là Nandiyamiga. Ngài là một con nai tốt bụng và hiền lành, và đã chăm sóc cha mẹ già của mình.
Vua Kosala rất thích săn bắn. Mỗi ngày vua đều vào rừng cùng một đoàn săn bắn đông đảo. Vì vậy, người dân không thể làm việc đồng áng hay làm việc. Họ trở nên tức giận và lo lắng. Vì vậy, họ đã tập hợp lại và lập một kế hoạch.
Họ nói, "Chúng ta hãy xây một công viên rộng lớn có hàng rào, trồng cỏ, đào ao nước và làm một cái cổng. Sau đó, chúng ta sẽ lùa tất cả hươu nai từ rừng vào công viên đó, đóng cổng lại, báo cáo với nhà vua, và cuối cùng quay lại làm việc."
Họ đã làm đúng như vậy. Họ chuẩn bị công viên, sau đó vào rừng, dùng gậy đập bụi rậm và lùa hươu nai về phía công viên.
Lúc đó, chàng Nandiya đang nghỉ ngơi trong một bụi cây nhỏ với cha mẹ. Mọi người vây quanh khu vực và bắt đầu tiến vào. Nandiya nhận ra rằng họ sẽ sớm tìm thấy cả ba con nai.
Cậu nghĩ, "Nếu họ thấy chúng ta ở cùng nhau, cha mẹ sẽ không qua khỏi. Con phải hy sinh mạng sống của mình để cứu cha mẹ."
Cậu cúi đầu trước cha mẹ và nói, "Cha mẹ ơi, những người này sẽ sớm tìm thấy nơi này. Con có thể cứu cha mẹ. Con sẽ chạy ra ngoài trước để họ nghĩ rằng chỉ có một con nai ở trong đó. Họ sẽ không vào bụi cây. Xin cha mẹ hãy ẩn núp."
Cha mẹ cậu đồng ý, và Nandiya chuẩn bị hy sinh bản thân.
Khi mọi người tới đập vào bụi rậm, Nandiya chạy ra ngoài một mình. Họ nghĩ, "Chỉ có một con nai ở đó thôi", nên họ không nhìn vào bên trong và cha mẹ cậu nai vẫn an toàn.
Mọi người tiếp tục lùa đàn nai vào vườn, sau đó đóng cổng và báo cáo với nhà vua.
Từ đó trở đi, mỗi ngày nhà vua đều đến vườn, bắn một con nai rồi rời đi. Đàn nai chia nhau ra, và ai đến lượt thì đợi nhà vua bắn.
Nandiya sống giữa họ, uống nước từ ao và ăn cỏ, nhưng vẫn chưa đến lượt cậu.
Sau nhiều ngày, cha mẹ Nandiya vô cùng nhớ cậu. Họ nói, "Con trai chúng ta khỏe mạnh. Nếu được tự do, nó sẽ nhảy qua hàng rào và đến với chúng ta. Chúng ta hãy nhắn tin cho nó."
Họ đứng gần đường và nhìn thấy một vị Bà-la-môn đi ngang qua. Họ nói chuyện với ông ta bằng tiếng người và yêu cầu ông ta chuyển lời nhắn của họ đến Nandiya trong vườn nai của nhà vua. Vị Bà-la-môn đồng ý.
Ông ta đến vườn, tìm Nandiya và nói lời nhắn của cha mẹ chú nai.
Nandiya nói: “Con có thể nhảy qua hàng rào và đến với cha mẹ. Nhưng con đã ăn đồ ăn và uống nước của nhà vua. Con nợ ngài ấy một món nợ. Hơn nữa, con đã sống giữa những con nai này một thời gian dài. Rời đi mà không giúp đỡ chúng nai hay giúp đỡ nhà vua là không đúng. Khi đến lượt con, con sẽ đến gặp nhà vua, làm điều tốt cho mọi người, rồi sau đó sẽ về với cha mẹ.”
Vị Bà-la-môn trở về và rời đi.
Sau đó, cuối cùng cũng đến lượt Nandiya. Nhà vua đến cùng với đoàn săn bắn thường lệ của mình. Nandiya bước lên phía trước và bình tĩnh đứng dậy, lộ thân mình để sẽ bị bắn. Chàng không chạy như những con nai khác.
Nhà vua giương cung nhắm bắn — nhưng vua không thể bắn. Sức mạnh từ lòng tốt của Nandiya đã ngăn vua lại.
Nandiya nói: “Đại vương, tại sao ngài không bắn?”
Nhà vua đáp: “Thưa vua nai, ta không thể bắn.”
Nandiya nói: “Vậy thì ngài sẽ thấy được sức mạnh của đức hạnh.”
Nhà vua đã hiểu. Ngài buông cung xuống và nói: "Ngay cả cây cung này cũng biết công đức của ngài. Làm sao tôi, một con người, lại không hiểu được? Xin hãy tha thứ cho ta. Ta ban sự an toàn cho ngài."
Nandiya thưa: "Tâu Đại Vương, ngài ban sự an toàn cho tôi, nhưng còn tất cả những con nai khác thì sao?"
Nhà vua đáp: "Tôi cũng ban sự an toàn cho chúng."
Rồi Nandiya hỏi: "Còn chim chóc? Cá chóc? Tất cả chúng sinh thì sao?"
Nhà vua đồng ý và ban sự an toàn cho tất cả chúng sinh, như trong một câu chuyện nổi tiếng khác.
Sau đó, Nandiya thuyết giảng cho nhà vua về chánh pháp và những đức tính mà một vị vua tốt nên thực hành. Nhà vua kính cẩn lắng nghe.
Nhà vua sau đó công bố khắp kinh thành rằng ngài đã ban sự an toàn cho tất cả chúng sinh.
Sau đó, Nandiya thưa: "Đại Vương, xin hãy giữ chánh niệm," rồi rời khỏi vườn và về thăm cha mẹ.
Đức Phật kết thúc câu chuyện và giải thích về những kiếp trước. Cha mẹ nai là thành viên của hoàng tộc. Vị Bà-la-môn là Sariputta. Nhà vua là Ananda. Con nai Nandiyamiga chính là Đức Phật.
Vị sư đã nuôi dưỡng mẹ mình đã đạt đến sơ quả Nhập Lưu sau khi nghe được lời dạy này.
.... o ....
J385. Nandiyamiga Jātaka -- Compassion and kindness serve as a shield for all living beings.
Summary: A monk supports his parents, and the Buddha praises him for this. The Buddha then shares a story about a deer who acts as a decoy to protect his parents. Later, the deer persuades the king to grant safe passage to all the animals in the kingdom.
.
The Buddha told this story at Jetavana about a monk who supported his mother. The Buddha asked him, “Is it true that you help lay people?”
The monk answered, “Yes, Lord — I help my father and mother.”
The Buddha said, “Good, good! You follow the path of the wise. Even in the past, wise beings, even when born as animals, gave their lives to support their parents.” Then he told an old story.
Long ago, when the king of Kosala ruled in the city of Saketa, the Bodhisatta was born as a deer. When he grew up, he was called Nandiyamiga. He was a good and kind deer, and he took care of his old father and mother.
The king of Kosala loved hunting. Every day he went into the forest with a large hunting party. Because of this, the people could not work on their farms or do their jobs. They grew angry and worried. So they gathered and made a plan.
They said, “Let us build a large fenced park, plant grass, dig a water pond, and make a gate. Then we will drive all the deer from the forest into that park, close the gate, tell the king, and finally return to our work.”
They did exactly that. They prepared the park, then entered the forest with sticks, beating the bushes and driving the deer toward the park.
At that time, Nandiya was resting in a small thicket with his parents. The people surrounded the area and began moving in. Nandiya realized they would soon find all three of them.
He thought, “If they see us together, my parents will not survive. I must give up my life to save theirs.”
He bowed to his parents and said, “Father and Mother, these people will soon find this place. I can save you. I will run out first so they think only one deer was inside. They won’t enter the thicket. Please stay hidden.”
His parents agreed, and Nandiya prepared to sacrifice himself.
When the people beat the thicket, Nandiya dashed out alone. They thought, “Only one deer was there,” so they did not look inside and his parents were safe.
The people continued driving all the deer into the park, then shut the gate and reported to the king.
From then on, each day the king came to the park, shot one deer, and left. The deer arranged turns, and whoever’s turn it was waited for the king.
Nandiya lived among them, drinking from the pond and eating grass, but his turn did not come yet.
After many days, Nandiya’s parents missed him deeply. They said, “Our son is strong. If he were free, he would leap the fence and come to us. Let us send him a message.”
They stood near the road and saw a passing brahmin. They spoke to him in human speech and asked him to deliver their message to Nandiya in the king’s park. The brahmin agreed.
He went to the park, found Nandiya, and spoke the message from his parents.
Nandiya said, “I could leap the fence and go to them. But I have eaten the king’s food and drunk the king’s water. I owe him a debt. Also, I have lived among these deer for a long time. It is not right to leave without helping them or helping the king. When my turn comes, I will face the king, do good for everyone, and then I will go to my parents.”
The brahmin returned and left.
Later, Nandiya’s turn finally came. The king arrived with his usual hunting party. Nandiya stepped forward and stood calmly, offering his side to be shot. He did not run like the other deer.
The king held his bow and aimed — but he could not release the arrow. The power of Nandiya’s goodness stopped him.
Nandiya said, “Great King, why do you not shoot?”
The king replied, “King of deer, I cannot.”
Nandiya said, “Then you can see the power of virtue.”
The king understood. He dropped his bow and said, “Even this bow knows your merit. How can I, a human being, not understand it? Forgive me. I give you safety.”
Nandiya said, “Great King, you give safety to me, but what about all the other deer?”
The king said, “I give safety to them too.”
Then Nandiya said, “What about the birds? The fishes? All living beings?”
The king agreed and granted safety to all creatures, as in another famous story.
Nandiya then taught the king about righteous rule and the virtues a good king should practice. The king listened respectfully.
The king then announced throughout the city that he granted protection to all beings.
After this, Nandiya said, “Great king, please stay mindful,” and then he left the park and went to visit his parents.
The Buddha ended the story and explained the past lives. The father and mother deer were members of the royal family. The brahmin was Sariputta. The king was Ananda. Nandiyamiga, the deer, was the Buddha himself.
The monk who supported his mother reached the First Path after hearing this teaching.
.... o ....
J386. Kharaputta Jātaka -- Cuộc sống là vô giá; đừng tự hại mình.
Tóm tắt: Một vị sư có nguy cơ bị phân tâm khi cứ mãi nghĩ về người vợ cũ. Đức Phật kể một câu chuyện về một vị vua có được một lá bùa hộ mệnh cho phép ngài hiểu được tiếng nói của các loài động vật. Tuy nhiên, vợ ngài lại thèm muốn lá bùa hộ mệnh này đến mức sẵn sàng đánh đổi mạng sống của chồng để có được nó.
.
Đức Phật kể câu chuyện này tại Jetavana về một vị sư bị cám dỗ bởi người vợ cũ. Vị sư thừa nhận rằng ông vẫn còn khao khát cuộc sống trần tục. Đức Phật nói: "Người phụ nữ này đã từng làm hại ông. Từ lâu rồi, ông đã suýt chết vì cô ta, và những bậc hiền trí đã cứu ông." Rồi Ngài kể câu chuyện cổ này.
Ngày xửa ngày xưa, tại thành Benares, có một vị vua tên là Senaka. Vào thời đó, Bồ Tát là Sakka, vua của các vị thần.
Vua Senaka là bạn với một vị long vương—một vị vua rắn hùng mạnh sống ở cõi long vương. Vị long vương này thỉnh thoảng lên cõi người để tìm thức ăn. Một ngày nọ, một số cậu bé nhìn thấy ông và nghĩ rằng ông chỉ là một con rắn bình thường. Chúng ném đất và đá vào ông. Nhà vua tình cờ đi ngang qua, nhìn thấy điều này và bảo các cậu bé dừng lại. Nhờ vậy, mạng sống của vị long vương đã được cứu.
Để cảm ơn nhà vua, vị long vương đã bí mật đến vào ban đêm và tặng ông nhiều châu báu. Sau đó, ông thường xuyên đến thăm nhà vua. Ngài cũng sai một nàng Naga xinh đẹp đến gần nhà vua và bảo vệ ngài. Ngài ban cho nhà vua một lá bùa và dặn: "Nếu nàng biến mất, hãy đọc lá bùa này và nhà vua sẽ gặp lại nàng."
Một ngày nọ, nhà vua và nàng Naga đang chơi đùa trong ao sen. Nàng Naga nhìn thấy một con rắn nước, biến trở lại hình dạng thật của mình và bắt đầu cư xử tệ bạc với con rắn nước. Nhà vua dùng bùa, thấy hành động của nàng, liền đánh nhẹ nàng bằng một cây gậy tre nhỏ để khiển trách. Tức giận, nàng bỏ đi và trở về cõi Naga.
Ở đó, nàng nói dối: "Nhà vua đánh tôi dù tôi chẳng làm gì sai cả." Vua Naga tin lời nàng và sai bốn nàng Naga trẻ đi giết vua Senaka. Ban đêm, chúng vào phòng ngủ của nhà vua. Nhưng đúng lúc đó, nhà vua đang nói chuyện với hoàng hậu và giải thích chính xác những gì đã xảy ra với nàng Naga.
Khi các nàng Naga trẻ nghe được sự thật, họ trở về nhà và kể lại cho long vương nghe. Nhận ra mình đã bị lừa, long vương vội vã đến gặp vua Senaka, xin lỗi và tha thứ. Để chuộc lỗi, long vương ban cho nhà vua một lá bùa vô giá giúp ông hiểu được tiếng nói của muôn loài. Ông cảnh cáo: "Nếu ngươi đưa lá bùa này cho người khác, ngươi sẽ chết ngay lập tức." Nhà vua chấp nhận lá bùa.
Sau đó, nhà vua thậm chí còn hiểu được tiếng nói của loài kiến. Một ngày nọ, một ít thức ăn - mật ong, mật mía và bánh ngọt - rơi xuống đất. Một con kiến nhìn thấy và hét lên gọi những con kiến khác đến thưởng thức. Nghe thấy tiếng kiến, nhà vua bật cười. Hoàng hậu tự hỏi tại sao ông lại cười, nhưng không nói gì.
Sau đó, một con ruồi thì thầm với một con ruồi khác về việc làm tình trên lưng nhà vua sau khi nó lấy được chút bột thơm gần chân nhà vua. Nhà vua nghe thấy và lại cười. Hoàng hậu càng thêm bối rối.
Tối hôm đó, một nắm cơm rơi xuống đất, và lũ kiến lại hét lên. Nhà vua lại cười lần thứ ba. Hoàng hậu nghĩ rằng có lẽ ông đang cười mình.
Đến giờ đi ngủ, nàng hỏi chàng đã thấy gì. Ban đầu nhà vua từ chối trả lời, nhưng nàng vẫn khăng khăng cho đến khi chàng kể hết mọi chuyện về lá bùa. Nàng lập tức yêu cầu: "Đưa lá bùa cho thiếp."
Nhà vua nói: "Nếu ta đưa nó cho nàng, ta sẽ chết."
Nàng đáp: "Dù có chết, Bệ hạ cũng phải đưa nó cho thiếp."
Cuối cùng, nhà vua, bị dục vọng chi phối, đã đồng ý. Ngài chuẩn bị đi vào công viên và bước vào đống lửa sau khi trao tặng bùa hộ mệnh, bởi vì ngài biết mình sẽ chết.
Đế Thích (Sakka), vua của các vị thần, nhìn xuống từ thiên đường và thấy những gì đang xảy ra. Ngài nói: "Vị vua ngu ngốc này sẽ chết vì một người phụ nữ. Ta phải giúp ông ấy."
Đế Thích biến mình thành một con dê đực, và biến người bạn đồng hành Suja thành một con dê cái. Họ xuất hiện trước cỗ xe của nhà vua, nhưng chỉ có nhà vua và những con ngựa mới nhìn thấy. Đế Thích làm như thể mình đang giao phối với con dê cái ngay trên đường.
Một trong những con ngựa trên xe đã mắng con dê vì đã hành động trơ tráo trước công chúng. Con dê trả lời bằng cách nói rằng con ngựa thật ngu ngốc khi bị trói và không được tự do chạy. Sau đó, nó nói thêm rằng vua Senaka còn ngu ngốc hơn nữa vì sắp vứt bỏ một kho báu vô giá vì một người phụ nữ và mất mạng.
Nhà vua nghe tất cả những điều này và hiểu rằng con dê thực sự đang cho mình lời khuyên. Nó nói: "Hãy cho ta biết ta nên làm gì."
Con dê giải thích: "Không gì quý hơn mạng sống của mình. Đừng tự hủy hoại bản thân. Ngươi không nên cho đi bùa hộ mệnh."
Nhà vua hỏi: "Nhưng ta đã hứa tặng bùa hộ mệnh cho nàng. Giờ ta phải làm gì đây?"
Con dê đáp: "Cứ nói đó là tục lệ. Bảo nàng phải chấp nhận một nghi lễ trước khi nhận bùa hộ mệnh. Như vậy nàng sẽ từ chối."
Sau đó, Đế Thích hiện hình và trở về trời.
Nhà vua trở lại khu vườn và gọi hoàng hậu lại. Ông hỏi: "Nàng có muốn bùa hộ mệnh không?" Nàng đáp: "Có." Ông nói: "Có một tục lệ. Nàng phải chịu một trăm roi vào lưng, và phải im lặng suốt thời gian đó."
Ham muốn bùa hộ mệnh, nàng đồng ý. Nhưng chỉ sau vài roi, nàng hét lên: "Ta không muốn bùa hộ mệnh nữa!"
Nhà vua nói: "Ngươi đã muốn ta chết vì bùa hộ mệnh này rồi," và ra lệnh đánh đập cho đến khi lưng nàng bị thương nặng. Sau đó, nàng không bao giờ hỏi về bùa hộ mệnh nữa.
Khi Đức Phật kể xong câu chuyện, Ngài giải thích mối liên hệ giữa những người trong câu chuyện với những người ở thời hiện tại: Vua Senaka là vị sư cảm thấy bất mãn; Hoàng hậu là vợ cũ của vị sư; Con ngựa là Sariputta; Và Sakka chính là Đức Phật.
Vị sư lắng nghe câu chuyện đã ngộ ra chân lý, và sau khi nghe xong bài giảng, ngài đã đạt đến sơ quả Nhập Lưu.
.... o ....
J386. Kharaputta Jātaka -- Life is invaluable; do not harm yourself.
Summary: A monk risks falling into distraction by dwelling on thoughts of his former wife. The Buddha shares a story about a king who acquired a magical charm that allowed him to understand the language of animals. However, his wife coveted this charm so much that she was willing to endanger his life to obtain it.
.
The Buddha told this story at Jetavana about a monk who was feeling temptation because of his former wife. The monk admitted that he still longed for worldly life. The Buddha said, “This woman harmed you before. Long ago you almost died because of her, and wise people saved you.” Then he told this old story.
A long time ago, in the city of Benares, there was a king named Senaka. At that time, the Bodhisatta was Sakka, the king of the gods.
King Senaka was friends with a naga-king—a powerful serpent king who lived in the naga world. This naga-king sometimes came up to the human world to find food. One day, some boys saw him and thought he was just a normal snake. They threw dirt and stones at him. The king happened to walk by, saw this, and told the boys to stop. Because of this, the naga-king’s life was saved.
To thank the king, the naga-king came secretly at night and gave him many jewels. He visited often after that. He also sent a beautiful naga girl to stay near the king and protect him. He gave the king a magic charm and said, “If she disappears, say this charm and you will see her again.”
One day, the king and the naga girl were playing in a lotus pond. The naga girl saw a water-snake, changed back into her true naga form, and began to behave badly with the water-snake. The king used the charm, saw what she was doing, and hit her lightly with a small bamboo stick to correct her. Angry, she left and went home to the naga world.
There, she lied and said, “The king hit me even though I did nothing wrong.” The naga-king believed her and sent four young nagas to kill King Senaka. They entered the king’s bedroom at night. But just then, the king was talking to his queen and explaining exactly what had happened with the naga girl.
When the young nagas heard the truth, they returned home and told their king. Realizing he had been tricked, the naga-king hurried to King Senaka, apologized, and forgave him. To make up for the trouble, he gave the king a priceless charm that allowed him to understand the speech of all animals. He warned, “If you ever give this charm to someone else, you will die immediately.” The king accepted the charm.
After that, the king could understand even the talk of ants. One day, some food—honey, molasses, and cake—fell to the ground. An ant saw it and shouted to the other ants to come enjoy it. Hearing the ant, the king laughed. The queen wondered why he laughed, but said nothing.
Later, a fly whispered to another fly about making love on the king’s back after she got some perfume powder from near his feet. The king heard this and laughed again. The queen was more confused.
That evening, a bit of rice fell to the floor, and the ants shouted again. The king laughed a third time. The queen thought he might be laughing at her.
At bedtime, she asked him what he had seen. The king at first refused to answer, but she insisted until he finally told her everything about the magic charm. She immediately demanded, “Give me the charm.”
The king said, “If I give it to you, I will die.”
She replied, “Even if you die, give it to me.”
Finally the king, controlled by desire for her, agreed. He prepared to go to the park and enter a fire after giving the charm away, because he knew he would die.
Sakka, the king of the gods, looked down from heaven and saw what was happening. He said, “This foolish king is going to die because of a woman. I must help him.”
Sakka turned himself into a male goat, and turned his companion Suja into a female goat. They appeared in front of the king’s chariot, but only the king and the horses could see them. Sakka acted like he was mating with the female goat right there on the road.
One of the chariot horses scolded the goat for acting shamelessly in public. The goat answered by saying the horse was stupid for being tied up and not running free. Then he added that King Senaka was even more foolish because he was about to throw away a priceless treasure for a woman and lose his life.
The king heard all of this and understood that the goat was actually giving him advice. He said, “Tell me what I should do.”
The goat explained, “Nothing is more precious than your own life. Do not destroy yourself. You should not give the charm away.”
The king asked, “But I promised her the charm. What should I do now?”
The goat replied, “Just say it is part of the custom. Tell her she must accept a ceremony before receiving the charm. This way she will refuse.”
Then Sakka revealed himself and returned to heaven.
The king returned to the garden and called the queen. He said, “Do you want the charm?” She said yes. He told her, “There is a custom. You must receive one hundred lashes on your back, and you must stay silent the whole time.”
Greedy for the charm, she agreed. But after only a few lashes she screamed, “I don’t want the charm anymore!”
The king said, “You would have let me die for this charm,” and ordered the beating to continue until her back was badly hurt. After this, she never again asked about the charm.
When the Buddha finished the story, he explained how the people in the tale were connected to those in the current time: King Senaka was the monk who felt discontent; The queen was the monk’s former wife; The horse was Sariputta; And Sakka was the Buddha himself.
The monk listening to the story realized the truth, and at the end of the teaching he reached the First Stage of Enlightenment.
.... o ....
J387. Suci Jātaka -- Cây kim thần diệu
Tóm tắt: Các nhà sư bàn luận về tài năng của Đức Phật trong việc dẫn dắt con người đến giải thoát. Đức Phật kể một câu chuyện về một người thợ rèn bậc thầy đã rèn nên một cây kim tinh xảo đến nỗi chàng cưới được con gái của người thợ rèn trưởng làng rèn.
.
Đức Phật kể câu chuyện này tại Jetavana để dạy về trí tuệ hoàn hảo. Ngài nói: "Đây không phải lần đầu tiên Như Lai tỏ ra thông tuệ và khéo léo", rồi Ngài kể một câu chuyện cổ xưa từ quá khứ.
Ngày xưa, tại thành Benares, có một vị vua tên là Brahmadatta. Bấy giờ, Bồ Tát sinh ra ở vương quốc Kasi, trong một gia đình thợ rèn. Cha mẹ ngài nghèo khó, nhưng khi lớn lên, ngài trở nên cực kỳ khéo léo trong nghề kim hoàn.
Gần làng ngài có một làng thợ rèn khác với hàng ngàn hộ gia đình. Người đứng đầu làng đó là một bậc thầy rèn. Ông giàu có, được kính trọng và được vua sủng ái. Ông có một cô con gái vô cùng xinh đẹp, tựa như một tiên nữ trên trời. Dân chúng từ nhiều làng khác nhau đến nơi đó để xin làm công cụ - rìu, cày, kim - và mỗi khi đến thăm, họ đều nhìn thấy người con gái xinh đẹp. Khi trở về nhà, họ đều ca ngợi vẻ đẹp của nàng khắp nơi.
Bồ Tát nghe người ta kể về cô gái này, và ngay từ những câu chuyện, ngài đã yêu nàng. Ngài nghĩ: "Ta muốn nàng làm vợ ta."
Để chinh phục nàng, ngài quyết định thể hiện tài năng phi thường của mình. Ngài lấy loại sắt tốt nhất và rèn ra một cây kim rất tinh xảo nhưng cũng rất bền. Nó nhẹ đến nỗi có thể nổi trên mặt nước, và sắc bén đến mức có thể xuyên thủng cả xúc xắc. Sau đó, ngài làm một vỏ kim từ chính loại sắt tốt đó. Ngài làm bảy vỏ kim, mỗi vỏ vừa khít với vỏ kim bên cạnh. Tay nghề của ngài điêu luyện đến nỗi người thường không thể tưởng tượng được ngài đã làm ra nó như thế nào.
Ngài đặt cây kim và vỏ kim vào trong một chiếc hộp rồi đi đến làng rèn lớn. Đứng trước cửa nhà người thợ rèn, ngài gọi to, ngỏ ý muốn bán cây kim đặc biệt này.
Lúc đó, con gái của người thợ rèn đang quạt cho cha mình khi ông nghỉ ngơi sau bữa trưa. Cô nghe thấy giọng nói của Bồ Tát. Giọng nói của ngài ngọt ngào và dễ chịu. Tò mò, cô bước ra ngoài và nói chuyện với ngài.
Cô nói: “Này chàng ơi, rất nhiều người từ khắp vương quốc đến đây mua dụng cụ. Mọi người ở đây đều là thợ rèn. Chẳng ai muốn mua cây kim của chàng trong một ngôi làng toàn thợ rèn đâu. Nếu chàng muốn bán nó, hãy đến một ngôi làng khác.”
Bồ Tát đáp: “Này cô ơi, cô không hiểu đâu. Ngay cả trong một ngôi làng toàn thợ rèn, tay nghề vẫn được công nhận. Nếu cha cô nhìn thấy cây kim này, chắc chắn ông ấy sẽ khen ngợi. Thậm chí ông ấy có thể gả cô cho ta.”
Người thợ rèn nghe thấy họ nói chuyện liền gọi con gái: “Ai vậy?” Cô gái trả lời: “Một người bán kim.” Người thợ rèn bảo cô đưa ông vào trong.
Bồ Tát bước vào, kính cẩn chào người thợ rèn và giải thích ông đến từ đâu và muốn bán gì. Người thợ rèn muốn xem cây kim, nhưng Bồ Tát nói rằng ông muốn cho tất cả thợ rèn trong làng xem trước để mọi người có thể chứng kiến chất lượng của nó. Người thợ rèn đồng ý và tập hợp toàn thể dân chúng.
Trước mặt đại chúng, Bồ Tát lấy hộp kim ra và đưa ống kim loại đầu tiên cho người thợ rèn. Người thợ rèn tưởng đó là cây kim, nhưng Bồ Tát nói: "Đó chỉ là vỏ kim thôi." Ngài dùng móng tay gỡ nó ra - điều mà không một thợ rèn bình thường nào có thể làm được - và đặt nó xuống đất.
Việc này cứ lặp đi lặp lại khi Ngài gỡ thêm sáu vỏ kim loại nữa, mỗi vỏ đều tinh xảo hơn vỏ trước, cho đến khi cuối cùng Ngài đặt cây kim thật vào tay người thợ rèn.
Hàng ngàn người thợ rèn đều kinh ngạc. Họ búng tay và vẫy khăn, thể hiện sự tán thưởng và ngưỡng mộ.
Sau đó, người thợ rèn hỏi: "Cây kim này bền chắc đến mức nào?"
Bồ Tát bảo một người lực lưỡng nhấc một cái đe lên và đặt một bình nước bên dưới. Sau đó, Ngài bảo người thợ rèn đâm thẳng cây kim vào đe.
Người thợ rèn làm theo, và cây kim xuyên qua đe nhưng vẫn vươn dài trên mặt nước mà không hề chìm. Nó không hề xê dịch dù chỉ một li.
Các thợ rèn reo lên kinh ngạc. Họ chưa bao giờ nghe nói đến một tài năng như vậy.
Ngay lúc đó, người thợ rèn trưởng gọi con gái mình đến và nói: "Chàng trai trẻ này xứng đáng với con." Trước mặt mọi người, ông gả nàng cho Bồ Tát. Sau đó, khi Bồ Tát qua đời, Ngài trở thành thợ rèn trưởng của cả làng.
Sau khi kể xong câu chuyện, Đức Phật giải thích: Con gái của người thợ rèn xinh đẹp là mẹ của La Hầu La; Người thợ rèn trẻ tuổi thông minh chính là Đức Phật.
Đức Phật sau đó giảng dạy Tứ Diệu Đế, và nhiều vị Tỳ kheo đã đạt được sự hiểu biết.
.... o ....
J387. Suci Jātaka -- The exquisite needle
Summary: The monks are discussing the Buddha's skill in guiding people toward liberation. The Buddha shares a story about a master smith who crafted a needle so fine that he earned the hand of the elder smith’s daughter.
.
The Buddha told this story at Jetavana to teach about the perfection of wisdom. He said, “This is not the first time the Tathagata has been wise and skillful,” and then he told an old story from the past.
Long ago, in the city of Benares, there was a king named Brahmadatta. At that time, the Bodhisatta was born in the kingdom of Kasi, in a family of blacksmiths. His parents were poor, but when he grew up, he became extremely skilled at metalwork.
Near his village was another blacksmith village with a thousand houses. The head of that village was a master smith. He was wealthy, respected, and a favorite of the king. He had a daughter who was extremely beautiful, like a heavenly nymph. People from many different villages came to that place to get tools made—axes, ploughs, needles—and whenever they visited, they saw the beautiful young woman. When they returned home, they spoke of her beauty everywhere.
The Bodhisatta heard people describing this girl, and he fell in love with her just from the stories. He thought, “I want her to be my wife.”
To win her, he decided to demonstrate his extraordinary skill. He took the finest iron and made a very delicate but very strong needle. It was so light it could float on water, and so sharp it could pierce through dice. Then he made a sheath for the needle out of the same fine iron. He made seven sheaths, each fitting perfectly inside the next. His work was so skillful that ordinary people could not imagine how he made it.
He placed the needle and sheaths inside a case and went to the large smith village. Standing at the door of the head-smith’s house, he called out, offering to sell this special needle.
At that moment, the head-smith’s daughter was fanning her father as he rested after lunch. She heard the Bodhisatta’s voice. His voice was sweet and pleasant. Curious, she came outside and spoke to him.
She said, “Young man, many people from all over the kingdom come here to buy tools. Everyone here is a smith. No one will want to buy your needle in a village full of smiths. If you want to sell it, go to another village.”
The Bodhisatta replied, “Lady, you do not understand. Even in a village full of smiths, skill is still recognized. If your father saw this needle, he would surely praise it. He might even give you to me in marriage.”
The head-smith overheard them talking and called his daughter, “Who is that?” She answered, “A man selling needles.” The head-smith asked her to bring him inside.
The Bodhisatta entered, greeted the head-smith respectfully, and explained where he came from and what he wished to sell. The head-smith asked to see the needle, but the Bodhisatta said he preferred to show it in front of all the village smiths so everyone could witness its quality. The head-smith agreed and gathered the entire community.
In front of the assembly, the Bodhisatta took out the case and handed the first tube to the head-smith. The head-smith thought it was the needle itself, but the Bodhisatta said, “That is only the sheath.” He removed it with his fingernail—something no ordinary smith could do—and placed it on the ground.
This happened again and again as he removed six more sheaths, each finer than the last, until finally he placed the actual needle on the head-smith’s hand.
The thousand smiths were amazed. They snapped their fingers and waved their cloths, which was a sign of applause and admiration.
Then the head-smith asked, “How strong is this needle?”
The Bodhisatta told a strong man to lift up an anvil and place a pot of water under it. Then he told the head-smith to strike the needle straight into the anvil.
He did, and the needle pierced the anvil but stretched across the surface of the water without sinking. It did not move even a hair’s breadth.
The smiths shouted in wonder. They had never heard of such skill.
Right there, the head-smith called his daughter forward and said, “This young man is worthy of you.” In front of all the people, he gave her to the Bodhisatta in marriage. Later, when he died, the Bodhisatta became the head-smith of the entire village.
After finishing the story, the Buddha explained: The beautiful smith’s daughter was Rahula’s mother; The clever young master-smith was the Buddha himself.
The Buddha then taught the Four Noble Truths, and many monks reached understanding.
.... o ....
J388. Tundila Jātaka -- Hãy đón nhận sinh và tử với trí tuệ.
Tóm tắt: Một vị sư nọ rất sợ chết, đến nỗi chỉ một tiếng động nhỏ cũng khiến ông giật mình. Để dạy ông, Đức Phật kể một câu chuyện về hai chú heo mà thịt của chúng sẽ được dùng làm tiệc. Chú heo lớn tuổi đã tuyên dạy một bài học về bản chất vô thường. Đám đông kinh ngạc trước trí tuệ của vị heo anh, và nhà vua đã tôn vinh cả hai chú heo bằng cách phong cho chúng một địa vị cao quý.
.
Đức Phật kể câu chuyện này khi đang ở tại Jetavana. Câu chuyện kể về một vị sư rất sợ chết.
Vị sư này xuất thân từ một gia đình danh giá ở Savatthi và đã xuất gia. Nhưng nhà sư rất dễ sợ hãi. Chỉ cần nghe thấy một tiếng động nhỏ - một cành cây gãy, một tiếng chim hót, một con vật di chuyển - sư sẽ run rẩy và bỏ chạy như một con thỏ sợ hãi.
Các vị sư khác bàn tán về ngài rằng: "Ai cũng biết cái chết là điều chắc chắn, còn cuộc sống thì bấp bênh. Tại sao vị sư này lại sợ hãi đến vậy?". Khi Đức Phật nghe được điều này và biết rằng vị sư thừa nhận nỗi sợ hãi của mình, Ngài nói: "Đây không phải là lần đầu tiên ngài sợ chết."
Sau đó, Đức Phật kể một câu chuyện cổ.
Ngày xưa, vua Brahmadatta trị vì ở Benares. Trong thời gian đó, Bồ Tát sinh ra là một con heo rừng con. Mẹ của ngài là một con heo nái hoang dã, và bà đã sinh ra hai con heo đực con. Một ngày nọ, bà mang chúng đến nghỉ ngơi trong một cái hố.
Một bà lão làng gần cổng thành Benares đang đi bộ về nhà, tay gõ nhẹ xuống đất. Khi nghe thấy tiếng gõ, con heo nái hoảng sợ bỏ chạy, bỏ lại đàn con phía sau.
Bà lão nhìn thấy hai chú heo con. Bà thương hại chúng và mang chúng về nhà trong giỏ. Bà đặt tên cho chú heo lớn là Mahatundila (“Mõm To”) và chú heo nhỏ là Cullatundila (“Mõm Nhỏ”). Bà nuôi nấng chúng bằng tình yêu thương như chính con ruột của mình.
Khi chúng lớn lên, những chú heo trở nên rất mập tốt và khỏe mạnh. Thỉnh thoảng có người trả tiền để mua chúng, nhưng bà lão từ chối, nói rằng: “Chúng là con của tôi.”
Một ngày nọ, trong một lễ hội, một nhóm đàn ông đang uống rượu. Khi hết thịt, họ tự hỏi làm sao có thể tìm thêm. Có người kể cho họ nghe về những chú heo trong nhà bà lão. Họ lấy tiền và đến gặp bà.
Họ nói: “Mẹ ơi, hãy lấy số tiền này và cho chúng con một chú heo của mẹ.”
Bà lão từ chối. “Liệu có người mẹ nào bán con mình để làm thịt không?”
Bọn đàn ông khăng khăng: "Chúng không phải trẻ con; chúng là heo!" Nhưng bà lão vẫn từ chối.
Cuối cùng, chúng bắt bà lão uống rượu mạnh. Khi bà cụ say, chúng lại thuyết phục bà lần nữa. Bà lão đồng ý bán chú heo con Cullatundila. Bà nói: "Tôi sẽ không cho các ông Mahatundila. Hãy lấy chú heo nhỏ hơn. Nó ở trong bụi rậm kia."
Bọn đàn ông yêu cầu bà gọi con lợn, nhưng bà nói rằng bà cần thức ăn để dụ nó ra. Họ mua gạo. Bà đổ đầy máng ăn cho heo gần cửa và chờ đợi. Ba mươi người đàn ông đứng gần đó với dây thừng sẵn sàng bắt con heo.
Bà gọi, “Lại đây, Cullatundila bé nhỏ! Lại đây!”
Mahatundila nghe thấy vậy. Ngài nghĩ, “Mẹ chưa bao giờ gọi heo emcon trước cả. Hôm nay chắc có chuyện gì không ổn.” Ngài nói với em trai, “Mẹ gọi em kìa. Đi xem có chuyện gì.”
Cullatundila đi ra ngoài. Cậu nhìn thấy máng đầy thức ăn, bà lão đứng cạnh, và ba mươi người đàn ông cầm dây thừng. Cậu hoảng sợ chạy về phía Mahatundila, toàn thân run rẩy.
Mahatundila hỏi, “Sao em lại run?”
Cullatundila kể lại mọi điều mình đã thấy.
Mahatundila (Bồ Tát) hiểu rằng bà lão đã nuôi dạy họ cho khoảnh khắc này—khi họ có thể bị giết để lấy thịt. Ngài bảo em trai đừng buồn và bắt đầu dạy dỗ em trai một cách bình tĩnh, với trí tuệ của một vị Phật tương lai.
Khi ngài nói, giọng ngài trở nên mạnh mẽ và lan tỏa khắp Benares. Mọi người dừng lại việc đang làm và lắng nghe. Các cận thần của nhà vua đến và dọn sạch bụi rậm. Những người say rượu buông dây thừng. Ngay cả bà lão cũng tỉnh táo trở lại khi nghe Bồ Tát thuyết giảng.
Một đám đông lớn tụ tập để nghe Ngài thuyết giảng.
Cullatundila bối rối hỏi anh trai: "Sao anh lại nói đến việc tắm trong hồ pha lê và xức dầu thơm? Chúng ta chưa bao giờ làm điều gì như vậy. Ý anh là gì?"
Mahatundila giải thích rằng hồ pha lê tượng trưng cho Pháp (Dhamma); những vệt mồ hôi tượng trưng cho tội lỗi hoặc hành động sai trái; và hương thơm đặc biệt tượng trưng cho đức hạnh, không bao giờ mất đi hương thơm.
Sau đó, Ngài giải thích rằng những người bám víu quá chặt vào cuộc sống sẽ đau khổ hơn. Những người chấp nhận cái chết một cách bình thản sẽ cảm thấy bình an. Ngài khuyến khích mọi người đối mặt với sự sống và cái chết bằng trí tuệ.
Đám đông kinh ngạc. Họ reo hò, vỗ tay và tán dương lời dạy.
Vua Benares tôn vinh Bồ Tát. Ngài ra lệnh tắm rửa cho cả hai con heo bằng nước hoa, mặc áo choàng đẹp và trang điểm như hoàng tử. Ngài đối xử với chúng như con ruột và ban cho chúng một đoàn tùy tùng đông đảo để bảo vệ.
Bồ Tát truyền dạy cho vua Ngũ Giới. Tất cả dân chúng ở Benares và Kasi đều giữ gìn giới luật. Vào những ngày lễ, Bồ Tát thuyết giảng Giáo Pháp và xét xử các vụ án. Khi ngài còn sống, không ai kiện cáo bất chính.
Khi nhà vua băng hà, Bồ Tát đã tôn vinh nhà vua một cách xứng đáng. Sau đó, ngài viết một cuốn sách ghi chép các phán quyết về pháp luật và bảo dân chúng dùng nó để giải quyết tranh chấp. Sau khi thuyết giảng Giáo Pháp một thời gian dài, ngài và em trai đi vào rừng. Dân chúng khóc lóc khi ra về. Bồ Tát tiếp tục thuyết giảng trong nhiều ngàn năm.
Khi Đức Phật kể xong câu chuyện, Ngài giải thích rằng vua Benares chính là Ananda; chú heo con sợ hãi, Cullatundila, chính là vị sư sợ chết; đám đông chính là cộng đồng tu sĩ; và Mahatundila chính là Đức Phật.
Sau đó, Đức Phật thuyết giảng Tứ Diệu Đế, và vị sư sợ hãi đã đạt được quả vị giác ngộ đầu tiên, sơ quả Nhập Lưu.
.... o ....
J388. Tundila Jātaka -- Embrace life and death with wisdom.
Summary: A monk was deeply afraid of death, so much so that even the slightest noise startled him. To teach him, the Buddha shared a story about two pigs whose meat was destined for a feast. The elder pig imparted a lesson on the nature of impermanence. The crowd was amazed by the elder’s wisdom, and the king honored both pigs by elevating them to a high status.
.
The Buddha told this story while staying at Jetavana. It was about a monk who was very afraid of death.
The monk came from a good family in Savatthi and joined the monastic life. But he was easily frightened. If he heard even a small sound—a twig breaking, a bird calling, an animal moving—he would shake and run away like a scared rabbit.
The other monks talked about him, saying, “Everyone knows death is certain, and life is uncertain. Why is he so afraid?” When the Buddha heard this, and learned that the monk admitted his fear, he said: “This is not the first time he has been afraid of death.”
Then the Buddha told an old story.
Long ago, King Brahmadatta ruled in Benares. During that time, the Bodhisatta was born as a baby wild pig. His mother was a wild sow, and she gave birth to two male piglets. One day, she took them to rest in a pit.
An old village woman near the gate of Benares was walking home, tapping the ground with her stick. When the sow heard the sound of the stick, she panicked and ran away out of fear for her life, leaving her babies behind.
The old woman saw the two baby pigs. She felt sorry for them and took them home in her basket. She named the older one Mahatundila (“Big Snout”) and the younger Cullatundila (“Little Snout”). She raised them with love, like her own children.
As they grew up, the pigs became very fat and healthy. People sometimes offered money to buy them, but the old woman refused, saying, “They are my children.”
One day, during a festival, a group of men were drinking. When they ran out of meat, they wondered where they could find more. Someone told them about the pigs in the old woman’s house. They took money and went to her.
They said, “Mother, take this money and give us one of your pigs.”
She refused. “Would any mother sell her children to be eaten?”
The men insisted, “They are not children; they are pigs!” But still she refused.
Finally, they made the old woman drink strong liquor. When she became drunk, they persuaded her again. She agreed to sell the younger pig, Cullatundila. She said, “I won’t give you Mahatundila. Take the little one. He’s in that bush.”
The men asked her to call the pig, but she said she needed food to lure him out. They bought rice. She filled the pig’s food trough near the door and waited. Thirty men stood nearby with ropes ready to catch the pig.
She called, “Come, little Cullatundila! Come!”
Mahatundila heard this. He thought, “Mother has never called him first before. Something must be wrong today.” He told his younger brother, “Mother is calling you. Go see what is happening.”
Cullatundila went out. He saw the trough full of food, the old woman standing beside it, and thirty men holding ropes. He became terrified and ran back to Mahatundila shaking all over.
Mahatundila asked, “Why are you shaking?”
Cullatundila explained everything he had seen.
Mahatundila (the Bodhisatta) understood that the old woman had raised them for this moment—when they might be killed for meat. He told his brother not to be sad and began to teach him calmly, with the wisdom of a future Buddha.
As he spoke, his voice became powerful and spread across all of Benares. People stopped what they were doing and listened. The king’s servants came and cleared the bush. The drunken men dropped their ropes. Even the old woman became sober again as she heard the Bodhisatta speaking.
A huge crowd gathered to listen to him teach.
Cullatundila, confused, asked his brother, “Why do you speak of bathing in a crystal pool and putting on perfume? We have never done anything like that. What do you mean?”
Mahatundila explained that the crystal pool means the Law (Dhamma); the stains of sweat mean sins or wrong actions; and the special perfume means virtue, which never loses its fragrance.
Then he explained that people who cling too tightly to life suffer more. People who accept death calmly feel peace. He encouraged everyone to face life and death with wisdom.
The crowd was amazed. They cheered, clapped, and praised the teaching.
The King of Benares honored the Bodhisatta. He ordered that both pigs be washed with perfumed water, dressed in fine robes, and decorated like princes. He treated them as his own sons and gave them a large retinue for protection.
The Bodhisatta taught the king the Five Precepts. All the people in Benares and Kasi kept the moral rules. On holy days, the Bodhisatta taught the Dhamma and judged legal cases. While he lived, no one brought dishonest lawsuits.
When the king died, the Bodhisatta honored him properly. Then he wrote a book of legal decisions and told the people to use it to settle disputes. After teaching the Dhamma for a long time, he and his brother went into the forest. People cried as they left. The Bodhisatta continued teaching for many thousands of years.
When the Buddha finished the story, he explained that the king of Benares was Ananda; the frightened little pig, Cullatundila, was the monk who feared death; the crowd was the monastic community; and Mahatundila was the Buddha himself.
The Buddha then taught the Four Noble Truths, and the fearful monk gained the first stage of enlightenment.
.... o ....
J389. Suvannakakkata Jātaka -- Chuyện con cua vàng làm bạn với Bồ Tát.
Tóm tắt: Trưởng lão Ānanda cố gắng bảo vệ Đức Phật khi Đề Bà Đạt Đa sai voi đến tấn công Ngài. Đáp lại, Đức Phật kể câu chuyện về một người nông dân kết bạn với một con cua. Khi một con quạ và một con rắn âm mưu giết người nông dân, con cua đã đến cứu và đánh bại kẻ thù.
.
Đức Phật kể câu chuyện này khi đang ở trong rừng Trúc Lâm. Các vị tỳ kheo đang bàn tán về việc Ananda đã từng liều mạng để bảo vệ Đức Phật. Đức Phật nghe thấy và nói: "Đây không phải lần đầu tiên Ananda hy sinh mạng sống vì ta." Rồi Ngài kể câu chuyện từ quá khứ này.
Ngày xưa, gần thành Vương Xá, có một ngôi làng Bà La Môn tên là Salindiya. Bồ Tát sinh ra ở đó trong một gia đình nông dân. Khi lớn lên, Ngài canh tác trên một mảnh đất rất rộng.
Một ngày nọ, Ngài ra đồng cùng những người làm công. Ngài dặn dò họ phải làm gì rồi đến một cái ao lớn gần đó để rửa mặt. Trong ao có một con cua vàng rất đẹp. Sau khi rửa mặt, Bồ Tát nhặt con cua lên, bỏ vào trong tấm vải ngoài và tiếp tục công việc. Khi về nhà, Ngài thả con cua trở lại nước. Sau đó, mỗi lần ra đồng, Ngài đều đến thăm con cua trước. Theo thời gian, họ trở thành đôi bạn rất thân thiết.
Bồ Tát có đôi mắt rất đẹp và trong sáng. Một con quạ cái sống trên cây cọ gần cánh đồng nhìn thấy đôi mắt của Bồ Tát và muốn ăn chúng. Nó nói với bạn tình của mình, con quạ đực, "Ta muốn ăn mắt của người đàn ông đó." Con quạ đực nói rằng nó không thể làm điều đó, nhưng con quạ cái đã có một kế hoạch. Nó nói, "Có một con rắn đen sống trong một tổ kiến gần đây. Nếu ngươi hầu hạ và bầu bạn với nó, nó sẽ giết chết người đàn ông, và sau đó ngươi có thể mang đôi mắt của nó đến cho ta."
Thế là con quạ bắt đầu hầu hạ con rắn. Một lúc sau, con rắn hỏi tại sao nó lại giúp mình. Con quạ giải thích mong muốn của vợ mình. Con rắn đồng ý giúp.
Một thời gian sau, những hạt giống mà Bồ Tát gieo trồng bắt đầu nảy mầm. Một ngày nọ, sau khi tắm rửa ở ao, ngài lại đặt con cua vàng vào trong tấm vải và đi ra cánh đồng. Con rắn trốn trong cỏ, chờ đợi. Khi Bồ Tát đi ngang qua, con rắn nhanh chóng cắn vào chân ngài, khiến ngài ngã xuống đất. Sau đó, con rắn chạy trở lại tổ kiến của mình.
Cùng lúc đó, con cua rơi khỏi áo Bồ Tát, con quạ bay xuống đậu trên ngực người đàn ông, sẵn sàng móc mắt ông ta.
Con cua thấy vậy liền nghĩ: "Con quạ này chính là nguyên nhân gây nguy hiểm cho bạn ta." Nó nhanh chóng dùng móng vuốt khỏe mạnh của mình tóm lấy cổ con quạ. Con quạ kêu lên thảm thiết và gọi rắn đến cứu.
Nghe thấy tiếng quạ kêu, con rắn quay lại. Con cua nhận ra nếu cứ giữ con quạ như vậy, con rắn cũng sẽ đến gần. Vì vậy, nó càng siết chặt con quạ hơn, chờ đợi.
Rắn và quạ nhanh chóng hiểu ra rằng con cua không cố ăn thịt chúng mà đang bảo vệ bạn mình. Con cua giải thích: "Người đàn ông này đã rất tốt với ta từ lâu rồi. Nếu ông ấy chết, ta sẽ rất buồn. Và nếu ta lớn lên, ai đó có thể sẽ tìm cách giết ta. Phải ngăn chặn con quạ và con rắn."
Con rắn biết mình cần một mánh khóe để trốn thoát. Nó nói với cua: "Nếu ngươi bắt chúng ta chỉ để cứu người, hãy để ta hút nọc độc ra khỏi chân hắn. Khi đó hắn sẽ sống. Hãy thả chúng ta ra."
Nhưng cua rất khôn ngoan. Nó nghĩ: "Nếu ta thả cả hai ra, chúng sẽ chạy mất." Vậy nên nó nói: "Ta sẽ chỉ thả con rắn. Con quạ sẽ ở lại với ta cho đến khi bạn ta được an toàn."
Rồi cua nới lỏng tay vừa đủ để rắn di chuyển. Rắn hút hết nọc độc và cứu Bồ Tát, khiến ngài đứng dậy khỏe mạnh trở lại.
Sau khi Bồ Tát hồi phục, cua nghĩ: "Nếu ta thả hai con này ra, chúng có thể lại làm hại bạn ta." Vì vậy, nó bóp nát đầu quạ và đầu rắn, giết chết cả hai. Con quạ cái từ trên cây nhìn thấy cảnh tượng đó liền sợ hãi bay đi.
Bồ Tát bèn ném con rắn chết sang một bên, nhẹ nhàng thả con cua vàng trở lại ao, tắm rửa rồi về nhà. Từ hôm đó, tình bạn của họ càng thêm bền chặt.
Khi Đức Phật kể xong câu chuyện, Ngài giải thích các nhân vật trong câu chuyện là ai: Con rắn là Ma Vương, con quạ là Đề Bà Đạt Đa, con cua là Ananda, và người nông dân Bà La Môn chính là Đức Phật. Con quạ cái là một phụ nữ tên là Ciñcāmanavikā.
Sau khi nghe lời dạy, nhiều nhà sư đã đạt đến các giai đoạn giác ngộ khác nhau.
.... o ....
J389. Suvannakakkata Jātaka -- The tale of the golden crab who became friends with the Bodhisattva.
Summary: Elder Ānanda attempts to protect the Buddha when Devadatta sends an elephant to attack him. In response, the Buddha shares a story about a farmer who befriended a crab. When a crow and a snake plotted to kill the farmer, the crab came to his rescue and defeated his enemies.
.
The Buddha told this story while staying in the Bamboo Grove. The monks were discussing how Ananda once risked his life to protect the Buddha. The Buddha heard their discussion and said, “This is not the first time Ananda has given his life for me.” Then he told this story from the past.
Long ago, near Rajagaha, there was a Brahmin village named Salindiya. The Bodhisatta was born there into a farmer’s family. When he grew up, he farmed a very large piece of land.
One day he went to his fields with his workers. He told them what to do and then went to a big pond nearby to wash his face. In that pond lived a beautiful golden crab. After washing, the Bodhisatta picked up the crab, put it inside his outer cloth, and continued his work. When he went home, he put the crab back into the water. After that, every time he came to the field, he first visited the crab. Over time, they became very close friends.
The Bodhisatta had very beautiful and clear eyes. A female crow living on a palm tree near the field saw his eyes and wanted to eat them. She told her mate, the male crow, “I want to eat that man’s eyes.” The male crow said he couldn’t do that, but the female crow had a plan. She said, “There is a black snake living in an ant-hill nearby. If you serve him and keep him company, he will kill the man, and then you can bring me his eyes.”
So the crow began to serve the snake. After a while, the snake asked why he was helping him. The crow explained his wife’s wish. The snake agreed to help.
After some time, the seeds the Bodhisatta had planted began to sprout. One day, after washing at the pond, he again put the golden crab in his cloth and walked to the field. The snake hid in the grass, waiting. When the Bodhisatta passed by, the snake quickly bit him on the leg, and he fell to the ground. Then the snake ran back to its ant-hill.
At the same moment, the crab fell out of the Bodhisatta’s garment, and the crow flew down and landed on the man’s chest, ready to peck out his eyes.
The crab saw this and thought, “This crow is the cause of my friend’s danger.” He quickly grabbed the crow by the neck with his strong claw. The crow cried out loudly and called the snake for help.
Hearing the crow’s cries, the snake came back. The crab realized that if he kept holding the crow, the snake would also get close. So he grabbed the crow even more tightly, waiting.
The snake and the crow soon understood that the crab was not trying to eat them, but was protecting his friend. The crab explained, “This man has been very kind to me for a long time. If he dies, I will be very sad. And if I grow large, anyone might try to kill me. The crow and the snake must be stopped.”
The snake knew he needed a trick to escape. He said to the crab, “If you caught us only to save the man, let me suck the poison out of his leg. Then he will live. Release us.”
But the crab was clever. He thought, “If I let both go, they will run away.” So he said, “I will release only the snake. The crow stays with me until my friend is safe.”
Then the crab loosened his grip just enough for the snake to move. The snake sucked the poison out and revived the Bodhisatta, who stood up healthy again.
After the Bodhisatta recovered, the crab thought, “If I let these two go free, they might harm my friend again.” So he crushed the crow’s and the snake’s heads and killed them both. The female crow saw this from the tree and flew away in fear.
The Bodhisatta then threw the dead snake aside, gently returned the golden crab to the pond, washed himself, and went home. From that day on, their friendship became even stronger.
When the Buddha finished the story, he explained who the characters had been: The snake was Mara, the crow was Devadatta, the crab was Ananda, and the Brahmin farmer was the Buddha himself. The female crow was a woman named Ciñcāmanavikā.
After hearing the teaching, many monks reached different stages of enlightenment.
.... o ....
J390. Mayhaka Jātaka -- Chuyện 1 người giàu không con và không bao giờ bố thí.
Tóm tắt: Một thương gia keo kiệt qua đời, và nhà vua thừa kế tài sản của ông. Tò mò về bản chất trái ngược của thương gia—vừa giàu, vừa keo kiệt—nhà vua thỉnh cầu Đức Phật giải thích. Đầu tiên, Đức Phật kể một câu chuyện về một kiếp trước, trong đó thương gia đã bố thí cho một vị Phật Độc Giác nhưng sau đó hối hận về sự rộng lượng của mình. Sau đó, Đức Phật kể một câu chuyện khác về một người em trai đã giết cháu và là con nuôi của y để giành quyền thừa kế, nhưng bị cha của cậu bé khiển trách.
.
Đức Phật kể câu chuyện này khi Ngài đang ở tại Kỳ Viên. Câu chuyện kể về một thương gia giàu có từ một vùng khác sống ở Savatthi. Mặc dù rất giàu có, nhưng ông không bao giờ hưởng thụ của cải của mình và không bao giờ chia sẻ nó với người khác.
Nếu có ai dâng cho ông những món ăn ngon, ông từ chối và chỉ ăn nước gạo loãng với cháo chua. Nếu có ai dâng cho ông những bộ quần áo lụa đẹp, ông từ chối và thay vào đó mặc những bộ quần áo thô làm từ sợi thô. Nếu có ai chuẩn bị một cỗ xe đẹp đẽ được trang trí bằng vàng bạc châu báu, ông sẽ gửi nó đi và đi trên một chiếc xe cũ kỹ, cũ kỹ với mái lợp bằng lá.
Ông không bao giờ bố thí, không bao giờ thực hành bố thí, và không bao giờ sử dụng của cải của mình cho bất cứ điều gì tốt đẹp. Khi chết, ông tái sinh vào địa ngục Roruva.
Vì ông không có gia đình hay người thừa kế, tất cả của cải của ông đều bị nhà vua chiếm đoạt. Trong bảy ngày bảy đêm, người của nhà vua đã vận chuyển những đống của cải của thương gia đến cung điện hoàng gia.
Sau khi tất cả đã được mang đi, nhà vua đến gặp Đức Phật. Đức Phật hỏi ông tại sao ông không đến thăm sớm hơn. Đức vua nói rằng ngài đã bận rộn thu thập tài sản của người thương gia đã chết. Rồi ngài hỏi: “Bạch Đức Thế Tôn, người đàn ông này có rất nhiều tài sản, nhưng ông ta từ chối ăn ngon, mặc đẹp, đi lại tiện nghi, và ông ta chưa bao giờ bố thí cho ai bất cứ thứ gì. Tại sao một người ích kỷ như vậy lại có được nhiều của cải đến vậy? Và tại sao ông ta lại không tận hưởng chúng?”
Kế đó, Đức Phật kể một câu chuyện từ quá khứ.
Câu chuyện thứ nhất: Món quà tặng ngài Tagarasikhi
Ngày xưa, tại Benares, có một thương gia ích kỷ và vô tín. Ông ta chưa bao giờ bố thí cho ai bất cứ thứ gì.
Một ngày nọ, ông nhìn thấy một vị Độc Giác Phật tên là Tagarasikhi đang đi khất thực. Người thương gia cúi chào và hỏi ông ta có nhận được thức ăn nào không. Khi Tagarasikhi nói rằng ông ta đang khất thực, người thương gia bảo người hầu đưa ông ta về nhà và tự tay dâng cho ông ta một bát đầy thức ăn đã được chuẩn bị cho người thương gia.
Người hầu làm theo lời ông ta. Vợ của người thương gia đã đổ đầy bát thức ăn ngon lành.
Sau đó, thương gia gặp lại Tagarasikhi và thấy mình đã nhận được món ăn ngon. Thay vì cảm thấy vui mừng vì món quà, thương gia lại cảm thấy hối hận. Ông nghĩ: “Nếu người hầu của ta được ăn món ăn này, họ sẽ làm việc chăm chỉ hơn cho ta. Ta đã mất mát một thứ!” Vì điều này, ông đã làm hỏng thiện ý bố thí.
Đức Phật giải thích rằng để đạt được lợi ích trọn vẹn của việc bố thí, ba điều phải thanh tịnh: Cảm thấy vui vẻ trước khi bố thí, vui vẻ bố thí, và không hối tiếc sau khi bố thí.
Thương gia không có đức tính thứ ba. Chính vì điều này, ông đã được giàu có trong kiếp sau—nhưng không thể hưởng thụ nó.
Nhà vua bèn hỏi Đức Phật: “Bạch Đức Thế Tôn, tại sao người đàn ông đó không có con?” Đức Phật trả lời: “Cũng có lý do cả thôi,” và kể một câu chuyện khác.
Câu chuyện thứ hai: Người em giết cháu trai
Ngày xưa, tại Benares, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình thương gia giàu có. Khi cha mẹ qua đời, ngài chăm sóc em trai và tiếp tục công việc kinh doanh của gia đình. Ngài xây dựng một nhà khất thực và bố thí rất rộng rãi.
Ngài có một người con trai. Khi đứa bé đủ lớn để biết đi, Bồ Tát quyết định từ bỏ cuộc sống gia đình. Ngài trao toàn bộ tài sản, vợ con cho em trai và bảo em tiếp tục bố thí. Sau đó, ngài xuất gia tu khổ hạnh và đến sống ở dãy Himalaya.
Người em chăm sóc đứa bé. Nhưng khi đứa bé lớn lên, người em trở nên tham lam. Anh ta nghĩ: "Nếu đứa bé này được thừa kế, ta sẽ phải chia tiền. Ta sẽ giết nó."
Một ngày nọ, người em dìm chết đứa bé dưới sông. Khi trở về nhà, mẹ của đứa bé hỏi con trai bà đâu. Người em nói dối: "Nó đang chơi dưới sông, và em không tìm thấy nó."
Bồ Tát, với thần thông của mình, biết chuyện gì đã xảy ra. Ngài bay lên không trung đến Benares. Khi đến nơi, ngài thấy em trai mình thậm chí đã ngừng bố thí.
Người em chào đón ngài, đưa ngài lên lầu và đãi ngài một bữa ăn thịnh soạn. Sau khi ăn xong, Bồ Tát hỏi: "Con trai ta đâu?"
"Nó chết rồi," người anh đáp. "Nó chết đuối. Em không biết chính xác chuyện gì đã xảy ra."
Bồ Tát nói: "Đồ độc ác! Chính ngươi đã giết nó. Ngươi nghĩ ngươi có thể giữ được số tài sản này sao? Nó sẽ bị vua chúa, kẻ trộm, hoặc những kẻ khác cướp mất. Ngươi giống như chim Mayha vậy."
Ngài giải thích rằng chim Mayha đã kêu "Của ta! Của ta!" trên một cây ăn quả, nhưng những con chim khác bay đến và ăn hết trái cây trong khi nó bất lực nhìn.
Bồ Tát khiển trách người em vì lòng tham và sự ngu ngốc của y, và khuyên y quay lại với việc bố thí. Sau đó, ngài trở về dãy Himalaya, tiếp tục thiền định, và sau đó được tái sinh vào cõi Phạm Thiên.
Đức Phật nói: “Tâu Đại Vương, người em trai tham lam trong câu chuyện này chính là người thương gia xa lạ kia. Vì đã giết con trai của anh trai mình nên về sau y không có con. Và vì hối hận sau khi bố thí cho Độc Giác Phật Tagarasikhi, anh ta đã tích lũy được của cải nhưng không thể hưởng thụ.”
Đức Phật nói rằng chính Ngài là người anh cả.
.... o ....
J390. Mayhaka Jātaka -- The story of a wealthy man who had no children and never gave alms.
Summary: A miserly merchant dies, and the king inherits his wealth. Curious about the merchant’s contrasting nature—being both wealthy and miserly—the king asks the Buddha for an explanation. The Buddha first shares a story about a past life in which the merchant had given alms to a Paccekabuddha but later regretted his generosity. Then, the Buddha recounts another tale about a brother who killed his adopted son to claim the inheritance, only to be reprimanded by the boy’s father.
.
The Buddha told this story while he was staying at Jetavana. It was about a wealthy merchant from another region who lived in Savatthi. Even though the merchant was very rich, he never enjoyed his wealth and never shared it with others.
If someone served him delicious food, he refused it and ate only thin rice-water with sour gruel. If someone brought him fine silk clothes, he rejected them and instead wore rough clothing made from coarse fibers. If someone prepared a beautiful chariot decorated with gold and jewels, he would send it away and ride in an old broken-down cart with a roof made of leaves.
He never gave gifts, never practiced generosity, and never used his wealth for anything good. When he died, he was reborn in a hell called Roruva.
Because he had no family or heirs, all his wealth was claimed by the king. For seven days and nights, the king’s men transported piles of the merchant’s riches to the royal palace.
After everything was taken, the king went to see the Buddha. The Buddha asked him why he had not visited earlier. The king said that he had been busy collecting the dead merchant’s wealth. Then he asked: “Lord, this man had so much wealth, but he refused to enjoy good food, good clothing, or good transportation, and he never gave anything to anyone. Why did a selfish man like that gain so much wealth? And why did he not enjoy it?”
Then the Buddha told a story from the past.
The First Story: The Gift to Tagarasikhi
Long ago in Benares, there lived a merchant who was selfish and unbelieving. He never gave anything to anyone.
One day, he saw a paccekabuddha, named Tagarasikhi, walking for alms. The merchant bowed to him and asked if he had received any food. When Tagarasikhi said he was begging, the merchant told his servant to bring him to his home and give him a bowl full of the food prepared for the merchant himself.
The servant did so. The merchant’s wife filled the bowl with excellent food.
Later, the merchant met Tagarasikhi again and saw that he had received the fine food. Instead of feeling happy about his gift, the merchant felt regret. He thought, “If my servants had eaten this food, they would have worked harder for me. I have lost something!” Because of this, he spoiled the good intention of giving.
The Buddha explained that to gain the full benefit of giving, three things must be pure: Feeling joy before giving, giving the gift happily, and feeling no regret afterward.
The merchant did not have the third quality. Because of this, he gained wealth in a future life—but could not enjoy it.
The king then asked the Buddha, “Lord, why did that man have no children?” The Buddha answered, “There is a reason for that as well,” and told another story.
The Second Story: The Brother Who Killed His Nephew
Long ago, in Benares, the Bodhisatta was born into a wealthy merchant family. When his parents died, he cared for his younger brother and continued the family business. He built an alms hall and gave generously.
He had one son. When the boy was old enough to walk, the Bodhisatta decided to leave the household life. He gave all his wealth, his wife, and his child to his younger brother and asked him to continue giving alms. Then he left to become an ascetic and went to live in the Himalayas.
The younger brother took care of the child. But as the boy grew up, the younger brother became greedy. He thought, “If this child inherits, I will have to share the money. I will kill him.”
One day, he drowned the boy in a river. When he came home, the boy’s mother asked where her son was. He lied, saying, “He was playing in the river, and I couldn’t find him.”
The Bodhisatta, with his special powers, knew what had happened. He flew through the air to Benares. When he arrived, he saw that his brother had even stopped giving alms.
The brother greeted him, took him upstairs, and gave him a fine meal. After eating, the Bodhisatta asked, “Where is my son?”
“He is dead,” said the brother. “He drowned. I don’t know exactly how it happened.”
The Bodhisatta said, “Wicked man! You killed him yourself. Do you think you can keep this wealth? It will be taken by kings, thieves, or others. You are like the Mayha bird.”
He explained that the Mayha bird cries “Mine! Mine!” over a fruit tree, yet other birds come and eat all the fruit while it watches helplessly.
The Bodhisatta rebuked his brother for his greed and foolishness, and urged him to return to almsgiving. Then he went back to the Himalayas, continued his meditation, and was later reborn in the Brahma world.
The Buddha then said, “Great king, the greedy younger brother in the story was the same person as the stranger merchant. Because he killed his brother’s son, he had no children in his later life. And because he felt regret after giving alms to Tagarasikhi, he gained wealth but could not enjoy it.”
The Buddha said he himself had been the elder brother.
.... o ....
.