Đạo Phật Ngày Nay

Bản Sanh: truyện 1 tới 10 / Jataka Tales: Stories 1–10

Lời Dịch Giả: Để giúp giới trẻ Việt Nam có thể dễ dàng học căn bản Phật pháp, các truyện Bản sanh nơi đây sẽ được rút ngắn và viết lại cho đơn giản trong song ngữ Việt -Anh. Dịch giả hy vọng các truyện Bản sanh song ngữ sẽ giúp cho quý tăng ni, giáo viên, và Phật Tử có thêm một phương tiện mới để hoằng pháp. Nguồn sẽ dựa theo bản tiếng Anh của 547 truyện Jataka trên mạng SuttaCentral (https://suttacentral.net/) trong khi đối chiếu với Ancient Buddhist Texts (https://ancient-buddhist-texts.net/). Dịch giả sẽ dựa vào Google Translate, sau đó sẽ cô đọng, hiệu đính, thực hiện tuần tự từng nhóm mười truyện, từ truyện đầu cho tới hết, khi sức khỏe còn cho phép làm việc. Độc giả có thể đọc các bản Việt dịch đầy đủ xin tìm đọc từ Kinh Tiểu Bộ Tập IV cho tới Tập X ở đây: https://thuvienhoasen.org/p13a31409/dai-tang-kinh-tieng-viet-nam-truyen-va-bac-truyen. Nguyện cho Phật pháp trường tồn, nguyện cho tất cả chúng sanh được thuận duyên trên đường giải thoát. Nguyên Giác.

Translator's Note: To help Vietnamese youth easily learn the basics of Buddhism, the Jataka stories have been shortened and rewritten in simplified bilingual Vietnamese-English. The translator hopes that these bilingual Jataka stories will provide monastics, teachers, and Buddhists with a new means to propagate the Dharma. The source material is based on the English versions of 547 Jataka stories available on the SuttaCentral and Ancient Buddhist Texts websites. The translator will use Google Translate as a base, then condense, proofread, and work on each group of ten stories sequentially, from the first story to the last, as his health permits. May the Dharma endure forever, and may all sentient beings have favorable conditions on the path to liberation. Nguyên Giác.

..... o ....

J1. Apannaka Jātaka -- Vượt qua sa mạc cần có trí tuệ.

Tóm tắt: Quy y Tam Bảo là bước đầu dẫn tới chân lý và thịnh vượng. Ngược lại, những ai có niềm tin sai lầm sẽ đau khổ, lạc hướng. Bồ Tát, xưa kia là một thương gia, đã tránh được một trò lừa của yêu tinh. Một thương gia trẻ khờ dại đã đổ cạn nước, bị yêu tinh lừa rằng phía trước còn nhiều hơn. Đoàn tùy tùng của gã khờ, không thể nấu cơm, kiệt sức vì đói và bị ăn thịt. Bồ Tát giữ nước lại, và đoàn tùy tùng của ngài sống sót.

.

Anatha-pindika, một vị thủ quỹ giàu có, đã đến Đại Tự viện Jetavana để thăm Đức Thế Tôn. Ông mang theo năm trăm người bạn của mình, những đệ tử của các trường phái triết học khác. Sau khi bày tỏ lòng kính trọng và dâng cúng, ông cùng bạn bè ngồi nghe bài pháp của Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn, với giọng nói mạnh mẽ như tiếng sư tử gầm và dịu dàng như chuỗi ngọc quý, đã thuyết giảng một bài pháp ngọt ngào và đẹp đẽ về Chân lý. Năm trăm đệ tử ấy cảm động đến mức họ từ bỏ niềm tin ngoại giáo, và bắt đầu quy y Tam Bảo: Phật, Pháp và Tăng. Từ đó, họ thường xuyên cùng Anatha-pindika đến chùa để nghe giáo pháp của Đức Phật.

Tuy nhiên, vài tháng sau, Đức Thế Tôn rời Jetavana đến Rajagaha. Ngay khi Ngài đi, năm trăm đệ tử ấy lại quay về với niềm tin cũ. Khi Đức Thế Tôn trở lại sau bảy hoặc tám tháng, Anatha-pindika lại dẫn bạn bè đến chùa. Vị thủ quỹ kể cho Đức Phật nghe rằng bạn bè ông đã bỏ rơi đức tin Tam Bảo trong thời gian Ngài vắng mặt.

Đức Phật giải thích rằng không có nơi nương tựa nào cao quý hơn Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) và những ai quy y Tam Bảo sẽ được giải thoát khỏi khổ đau và tái sinh vào cõi vinh quang. Ngài giải thích rằng việc rời bỏ Tam Bảo để theo các giáo lý khác là một sai lầm nghiêm trọng. Sau đó, Ngài kể một câu chuyện để minh họa nguy hiểm của việc theo các giáo lý sai lầm.

Đức Phật kể như sau. Ngày xưa, ở thành Benares, có một thương nhân thông thái, tức là Bồ Tát, tiền thân Đức Phật, và một thương nhân ngu ngốc, đầu óc cố chấp. Cả hai chuẩn bị dẫn đầu một đoàn xe gồm năm trăm xe chở hàng vượt qua một vùng hoang mạc dài và nguy hiểm. Bồ Tát biết sẽ khó khăn khi đi cùng một nhóm lớn, đề nghị một đoàn đi trước, đoàn kia đi sau. Thương nhân ngu ngốc, háo thắng muốn được ưu tiên, chọn đi trước, tin rằng sẽ có đường đi bằng phẳng hơn, cỏ tươi cho bò kéo xe và giá cả tốt hơn cho hàng hóa. Bồ Tát thì thấy lợi thế khi đi sau, vì sẽ được đi trên đường đã được dọn sẵn, giếng nước đã được đào và giá cả đã được định sẵn.

Đoàn của thương nhân ngu ngốc khởi hành, mang theo một lượng lớn nước. Giữa sa mạc, một con yêu tinh xảo quyệt, giả dạng người, đến gần họ trên một chiếc xe ngựa đẹp đẽ. Yêu tinh và các thuộc hạ ướt sũng và đeo hoa sen, nói rằng phía trước có một khu rừng xanh tươi, ngập nước mưa với nguồn nước dồi dào. Yêu tinh khuyên thương nhân nên vứt bỏ nước đi để giảm tải xe, vì nước không còn cần thiết nữa. Thương nhân ngu ngốc, không suy nghĩ, làm theo lời khuyên đó.

Khi đêm xuống, đoàn xe không tìm thấy nước. Mệt mỏi và khát, người và bò kéo xe ngã quỵ. Đêm đó, yêu tinh cùng đồng bọn từ thành phố của chúng xuất hiện và ăn thịt từng người và con vật, chỉ để lại xương và năm trăm chiếc xe cùng hàng hóa nguyên vẹn.

Sáu tuần sau, đoàn của Bồ Tát bắt đầu hành trình. Ngài đảm bảo rằng mọi người mang đủ nước và cảnh báo không được dùng nước khi chưa được phép hoặc ăn bất kỳ cây cỏ lạ nào. Giữa hoang mạc, họ gặp lại con yêu tinh, y vẫn kể câu chuyện giả dối như trước. Nhưng Bồ Tát không bị lừa. Ngài nhận ra người đó có mắt đỏ và không có bóng, dấu hiệu của yêu tinh. Ngài từ chối vứt bỏ nước và hỏi mọi người về dấu hiệu mưa. Họ xác nhận không thấy mây bão, sấm chớp hay nghe tiếng sấm. Bồ Tát tuyên bố người đó là yêu tinh và cảnh báo rằng đoàn trước do thương nhân ngu ngốc dẫn đầu có thể đã bị tiêu diệt vì nghe theo lời yêu tinh.

Bồ Tát thúc giục mọi người tiếp tục đi mà không lãng phí giọt nước nào. Chẳng bao lâu, họ đến nơi còn lại của đoàn xe ngu ngốc: năm trăm chiếc xe và những bộ xương rải rác. Bồ Tát cho dựng trại an toàn qua đêm, với bò kéo xe ở giữa và người canh gác. Sáng hôm sau, Ngài cho thay thế các xe yếu và hàng hóa thường bằng xe chắc chắn và hàng hóa quý giá còn lại. Họ tiếp tục hành trình, đến đích và trở về an toàn, không mất một người nào.

Sau khi kể xong câu chuyện, Đức Phật giải thích bài học: "Ngày xưa cũng như bây giờ, những ai ngu ngốc theo nơi nương tựa sai lầm sẽ gặp diệt vong, còn những ai bám chặt chân lý sẽ thịnh vượng."

Đức Phật kết luận bằng cách xác định các nhân vật trong câu chuyện. Tiền thân của Devadatta là thương nhân ngu ngốc, và những người theo hắn là đệ tử của thương nhân ngu ngốc. Thương nhân thông thái, Bồ Tát, chính là tiền thân Đức Phật. Năm trăm đệ tử nghe bài học về tầm quan trọng của việc giữ vững chân lý đã được thành tựu quả vị Dự lưu.

.... o ....

J1. Apannaka Jātaka -- Crossing the desert requires wisdom.

Summary: Taking refuge in the Three Jewels is the first step toward truth and prosperity. Conversely, those who hold wrong beliefs will suffer and lose their way.The Bodhisatta, once a merchant, avoided a goblin trick. A foolish young merchant dumped his water, misled by goblins claiming there was more ahead. His men, unable to cook rice, weakened from hunger and were eaten. The Bodhisatta kept his water, and his men survived.

.

Anathapindika, a wealthy treasurer, went to the Jetavana Monastery to visit the Blessed One. He brought with him five hundred friends, disciples of various philosophical schools. After paying homage and making offerings, he and his companions sat down to listen to the Blessed One's sermon. The Blessed One delivered a sweet and beautiful sermon on the Truth, with a voice as powerful as a lion's roar and as gentle as a necklace of precious gems. The five hundred disciples were so moved that they abandoned their former beliefs and took refuge in the Three Jewels: the Buddha, the Dhamma, and the Sangha. From then on, they often accompanied Anathapindika to the monastery to listen to the Buddha's sermons. However, a few months later, the Blessed One left Jetavana for Rajagaha. As soon as he departed, the five hundred disciples reverted to their old beliefs. When the Blessed One returned after seven or eight months, Anathapindika again brought his friends to the monastery and informed the Buddha that they had abandoned the Three Jewels during his absence.

The Buddha explained that there is no higher refuge than the Three Jewels—the Buddha, the Dharma, and the Sangha—and that those who take refuge in them will be liberated from suffering and reborn in a glorious realm. He emphasized that abandoning the Three Jewels to follow other teachings is a grave mistake. To illustrate the danger of following false teachings, he then told a story.

The Buddha told the following story: Once upon a time, in the city of Benares, there lived a wise merchant—the Bodhisatta, a previous incarnation of the Buddha—and a foolish, stubborn merchant. Both were preparing to lead a caravan of five hundred carts loaded with goods across a long and dangerous desert. The Bodhisatta, knowing that traveling with a large group would be difficult, suggested that one caravan go first and the other follow. The foolish merchant, eager to gain the upper hand, chose to go first, believing that the road would be smoother, the grass fresher for the oxen, and the prices better for the goods. The Bodhisatta saw the advantage of going later, as he would travel on a road that had already been cleared, benefit from a well that had already been dug, and take advantage of prices that had already been set.

The foolish merchant's caravan set out, carrying a large quantity of water. In the middle of the desert, a cunning goblin disguised as a human approached them in a beautiful carriage. The goblin and his followers, drenched and adorned with lotus flowers, claimed that ahead lay a lush, rain-soaked forest with an abundant water source. The goblin advised the merchant to discard the water to lighten the load, as it was no longer needed. The foolish merchant, without hesitation, followed the advice.

When night fell, the caravan could not find any water. Exhausted and thirsty, the men and oxen collapsed. That night, the goblins and their companions from the city appeared and devoured every person and animal, leaving only bones, along with the five hundred carts and their goods, intact.

Six weeks later, the Bodhisattva's party set out on their journey. He ensured everyone had enough water and warned them not to drink water without permission or eat any unfamiliar plants. In the middle of the desert, they encountered the goblin again, who repeated the same false story as before. However, the Bodhisattva was not deceived. He recognized the man by his red eyes and lack of a shadow—signs that he was a goblin. The Bodhisattva refused to discard the water and asked the group for signs of rain. They confirmed that they had not seen storm clouds or lightning or heard thunder. The Bodhisattva declared the man a goblin and warned that the previous party, led by the foolish merchant, might have been destroyed for trusting the goblin.

The Bodhisattva urged everyone to continue without wasting a single drop of water. Soon, they reached the remains of the ill-fated caravan: five hundred carts and scattered skeletons. The Bodhisattva set up a secure camp for the night, placing oxen to pull the cart in the center and assigning guards. The next morning, he replaced the weak carts and common goods with sturdy carts and the remaining precious items. They continued their journey, reached their destination, and returned safely without losing a single person.

After telling the story, the Buddha explained the lesson: "In the past, as in the present, those who foolishly followed false refuges met destruction, but those who clung to the truth prospered."

The Buddha concluded by identifying the characters in the story. Devadatta's previous life was that of a foolish merchant, and his followers were his disciples. The wise merchant, the Bodhisatta, was the Buddha himself. The five hundred disciples who heard the lesson on the importance of steadfastly holding to the truth attained stream-entry.

.... o ....

J2. Vannupatha Jātaka -- Chàng thiếu niên vâng lời Bồ Tát, kiên trì, đào ra nguồn nước.

Tóm tắt: Câu chuyện này nhấn mạnh tầm quan trọng của sự kiên trì trong tu học, và nói về sức mạnh của Đức Phật trong việc hướng dẫn chúng sinh vào con đường giải thoát. Bồ Tát, xưa kia là một thương gia, dẫn đầu một đoàn lữ hành băng qua sa mạc và bị lạc. Cần nước, ngài bảo đoàn tùy tùng đào. Họ đụng phải đá và bỏ cuộc—ngoại trừ một cậu bé, người đã phá vỡ được đường hầm và tìm thấy nước.

.

Khi Đức Phật đang cư trú tại tu viện Kỳ Viên gần Savatthi, một vị sư trẻ trở về sau ba tháng ẩn tu trong rừng. Dù đã nỗ lực hết mình, nhà sư vẫn không đạt được bất kỳ tuệ giác nào và chán nản, tin rằng mình không thể tiến bộ. Nhà sư bỏ cuộc và trở về tu viện, bằng lòng với việc chỉ lắng nghe giáo lý.

Các vị sư đồng tu của ngài rất ngạc nhiên. "Sư đã đạt được mục đích của đời sống thánh thiện chưa?" họ hỏi.

"Chưa," nhà sư trả lời. "Lòng tôi đã nản rồi. Tôi đã bỏ cuộc."

Lo lắng, họ dẫn nhà sư đến trước Đức Phật. "Vị sư này đã mất hết can đảm," họ nói.

Đức Phật nhìn nhà sư với lòng từ bi. "Có thật là sư đã bỏ cuộc không?"

"Vâng, Đức Thế Tôn," vị sư thú nhận.

Đức Phật nhẹ nhàng hỏi: "Tại sao con, người đã từng can đảm như vậy, giờ lại chùn bước? Trong một kiếp trước, chỉ mình con đã cứu được một đoàn lữ hành năm trăm cỗ xe bằng sự kiên trì của mình."

Các vị sư kinh ngạc. Đức Phật liền kể một câu chuyện từ rất xa xưa.

Ở Benares thời xưa, hai thương gia—một người khôn ngoan, một người ngu ngốc—chuẩn bị băng qua một sa mạc mênh mông với những đoàn xe mỗi đoàn năm trăm cỗ xe. Bồ Tát, vị thương gia khôn ngoan, chọn đi sau, cho phép mở đường và định giá hàng. Vị thương gia ngu ngốc, ham lợi nhuận, đã đi trước.

Giữa sa mạc, một yêu tinh cải trang thành người xuất hiện trước mặt thương gia ngu ngốc, nói rằng có một khu rừng rậm rạp phía trước. Hắn khuyên họ nên đổ nước đi để giảm tải. Tin tưởng hắn, họ đã làm theo. Đêm đó, họ không tìm thấy nước. Bọn yêu tinh xuất hiện, tàn sát đoàn xe và để lại xương rải rác trên cát.

Vài tuần sau, đoàn xe của Bồ Tát tiến vào sa mạc. Ngài cảnh báo đoàn người không được sử dụng nước nếu không được phép. Họ cũng gặp yêu tinh, nó lặp lại lời nói dối của mình. Nhưng Bồ Tát nhận thấy đôi mắt đỏ và không có bóng của nó—dấu hiệu của quỷ dữ—và không để bị lừa.

Người của Bồ Tát phản đối, nhưng ngài lý luận với họ: "Các ngươi có nghe thấy sấm sét không? Có thấy mây giông không? Chúng là yêu tinh đấy." Họ tiếp tục tiến lên và chẳng mấy chốc đã tìm thấy xác của đoàn lữ hành bị phá hủy. Bồ Tát ra lệnh dựng trại an toàn và tìm lại những vật dụng quý giá.

Gần cuối sa mạc, người dẫn đường đã nhầm lẫn dẫn họ đi vòng quanh. Đến sáng, họ trở lại nơi xuất phát, nước gần cạn. Nỗi tuyệt vọng lan tràn. Nhưng Bồ Tát tìm kiếm dưới đất và phát hiện ra cỏ kusa - một dấu hiệu của nước. Ngài ra lệnh đào lấy nước.

Họ đào sâu và đụng phải đá. Một lần nữa, nhiều người lại nản lòng. Nhưng Bồ Tát đã xuống hố và lắng nghe. Ngài nghe thấy tiếng nước yếu ớt. Ngài gọi chàng trai duy nhất vẫn chưa bỏ cuộc, nói: "Đập vào tảng đá này. Nếu ngươi chùn bước, tất cả chúng ta sẽ chết."

Chàng trai đập bằng tất cả sức lực của mình. Tảng đá vỡ ra, và nước phun ra. Đoàn lữ hành được cứu. Họ đến đích và trở về Benares với rất nhiều của cải.

Đức Phật kết luận: "Người lái buôn ngu ngốc là Đề Bà Đạt Đa. Người lái buôn thông thái là chính ta. Và người hầu cận đã cứu đoàn lữ hành chính là nhà sư này."

Nghe vậy, nhà sư cảm thấy lòng dũng cảm trở lại. Nhận ra sự kiên trì đã có sẵn trong mình, nhà sư lại thiền định. Dưới sự hướng dẫn của Đức Phật, nhà sư đã đạt được quả vị A-la-hán - quả vị cao nhất của con đường đạo.

.... o ....

J2. Vannupatha Jātaka -- The young man obeyed the Bodhisattva, persevered, and dug out a source of water.

Summary: This story highlights the importance of perseverance and the power of the Buddha in guiding one's path. The Bodhisatta, once a merchant, led a caravan through the desert and got lost. Needing water, he told his men to dig. They hit rock and gave up—except a boy, who broke through and found water.

.

While the Buddha was staying at the Jetavana Monastery near Savatthi, a young monk returned from a three-month solitary retreat in the forest. Despite his best efforts, he had not gained any insight and felt discouraged, believing he could not make any progress. He gave up and returned to the monastery, content with merely listening to the teachings.

His fellow monks were astonished. "Have you attained the goal of the holy life?" they asked.

"No," the monk replied. "My heart has grown weak. I have given up."

Concerned, they brought the monk before the Buddha and said, "This monk has lost all courage.

The Buddha looked at him with compassion. "Have you truly given up?"

"Yes, Lord," the monk confessed.

The Buddha gently asked, "Why do you, who were once so courageous, now falter? In a previous life, you alone saved a caravan of five hundred carts through your perseverance."

The monks were astonished. Then, the Buddha told a story from long ago.

In ancient Benares, two merchants—one wise and the other foolish—were preparing to cross a vast desert with caravans of five hundred carts each. The wise merchant, the Bodhisattva, decided to delay his journey to clear the road and properly price his goods. The foolish merchant, driven by greed for profit, went ahead.

In the middle of the desert, a goblin disguised as a human appeared before a foolish merchant and claimed that a dense forest lay ahead. He advised them to dump their water to lighten the load. Trusting him, they complied. That night, they found themselves without water. The goblins then appeared, slaughtered the caravan, and left bones scattered across the sand.

A few weeks later, the Bodhisattva's caravan entered the desert. He warned them not to use the water without permission. They also encountered the goblin, who repeated his lie. However, the Bodhisattva noticed its red eyes and lack of shadows—a sign of evil—and was not fooled.

The Bodhisattva's men protested, but he reasoned with them, "Do you hear the thunder? Do you see the storm clouds? They are goblins." They continued on and soon found the wreckage of the caravan. The Bodhisattva ordered them to set up camp safely and recover their valuables.

Near the edge of the desert, the guide mistakenly led them in a circle. By morning, they had returned to their starting point, with their water supply nearly depleted. Despair began to spread. However, the Bodhisattva searched the ground and discovered kusa grass—a sign of water. He then ordered them to dig for water.

They dug deep and struck rocks. Once again, many became discouraged. But the Bodhisattva descended into the pit and listened. He heard the faint sound of water. He called out to the only young man who had not given up, saying, "This rock." If you falter, we will all perish.

The young man struck with all his might. The rock shattered, and water gushed out. The caravan was saved. They reached their destination and returned to Benares with enormous wealth.

The Buddha concluded, "The foolish merchant was Devadatta, the wise merchant was myself, and the attendant who saved the caravan was this monk."

Hearing this, the monk felt his courage return. Recognizing the perseverance he already possessed, he resumed his meditation. Under the Buddha's guidance, he attained Arahantship—the highest fruit of the path.

.... o ....

J3. Serivanija Jātaka -- Cụ bà bán một bát vàng và suýt bị lừa gạt.

Tóm tắt: Câu chuyện này dạy rằng sự kiên trì được dẫn dắt bởi sự trung thực và đức hạnh sẽ mang lại phần thưởng thực sự, trong khi bỏ cuộc hoặc hành động theo lòng tham sẽ dẫn đến mất mát sâu sắc. Bồ Tát, xưa kia là một thương gia, thấy một người phụ nữ bán một cái bát vàng xỉn màu. Một thương gia khác, vì tham lam, trả giá rất thấp. Bồ Tát nói cho bà ta biết giá trị thực sự của cái bát, mua nó và kiếm lời. Người kia chết vì tức giận.

.

Một lần nọ, khi Đức Phật còn ở Savatthi, các huynh đệ dẫn một vị sư đến gặp Ngài. Vị sư này đã từ bỏ việc tu tập tâm linh, tin rằng mình không thể tiến bộ. Đức Phật, biết được quá khứ của vị sư này, đã nói với ông: "Này huynh đệ, người đã từ bỏ sẽ phải chịu đau khổ lâu dài, giống như người bán hàng rong đánh mất chiếc bát vàng trị giá một trăm ngàn đồng."

Các vị sư khác, cảm thấy tò mò trước lời tuyên bố này, đã thỉnh cầu Đức Thế Tôn giải thích. Đức Phật liền kể lại một câu chuyện từ một kiếp trước.

Năm đại kiếp trước, tại vương quốc Seri, có hai thương gia bán nồi niêu xoong chảo. Cả hai đều được gọi là 'Serivan', nhưng một người là người thông thái và lương thiện (Bồ Tát, một vị Phật tương lai), trong khi người kia là một kẻ tham lam và ngu ngốc. Họ cùng nhau đi đến thành phố Andhapura, nơi họ chia nhau ra bán hàng rong.

Trên một con phố nọ, gã bán hàng rong tham lam đến một ngôi nhà từng thuộc về một gia đình giàu có, nhưng giờ chỉ còn một bà lão và cháu gái sống ở đó, do cuộc sống khó khăn. Khi cô cháu gái xin bà một món đồ trang sức, bà lão đưa cho gã bán hàng rong một chiếc bát cũ kỹ, bẩn thỉu, chẳng còn tác dụng gì với họ nữa.

Gã bán hàng rong tham lam cầm lấy chiếc bát, dùng kim vạch một đường lên mặt sau và phát hiện ra nó được làm bằng vàng ròng. Nhưng lòng tham đã thôi thúc gã khao khát chiếc bát một cách vô ích. Gã tuyên bố nó vô giá trị, ném nó xuống đất và xông ra khỏi nhà, định bụng sẽ quay lại sau khi hai người phụ nữ tuyệt vọng và sẽ lấy chiếc bát mà không cần đền đáp.

Sau khi gã rời đi, gã bán hàng rong thông thái người Serivan đến cùng ngôi nhà đó và hét lên: "Bán bình nước! Bán bình nước!" Bà lão, nhớ lại sự khắc nghiệt của người bán hàng rong đầu tiên, đã do dự, nhưng cháu gái bà thấy được lòng tốt của người đàn ông mới này và thuyết phục bà cho ông vào. Hai người phụ nữ đưa cho ông chiếc bát tương tự, giải thích rằng người bán hàng rong đầu tiên đã nói nó vô giá trị.

Bồ Tát cầm lấy chiếc bát và ngay lập tức nhận ra giá trị của nó. "Mẹ ơi," ông nói, "chiếc bát này đáng giá một trăm ngàn đồng tiền. Con không có đủ tiền để trả."

Bà lão, kinh ngạc, tin rằng chiếc bát đã biến thành vàng nhờ sức mạnh của lòng tốt của ông. Bà nài nỉ ông lấy nó và cho họ bất cứ thứ gì ông có thể. Bồ Tát đưa cho họ tất cả số tiền ông có - năm trăm đồng tiền - và hàng hóa có giá trị tương đương, chỉ giữ lại chiếc cân, chiếc túi và tám đồng xu. Sau đó, ông vội vã ra sông, trả tiền cho người lái đò và bắt đầu qua sông.

Trong khi đó, người bán hàng rong tham lam quay lại, hy vọng sẽ lấy được chiếc bát mà không mất gì. Nhưng bà lão đã ngăn cản ông, nói rằng: "Ông đã lừa chúng tôi! Một người bán hàng rong ngay thẳng đã trả cho chúng tôi một ngàn đồng để mua cái bát vàng đó rồi lại mang nó đi."

Một cơn thịnh nộ và đau buồn khủng khiếp xâm chiếm người bán hàng rong tham lam. Ông nhận ra mình đã mất một gia tài. Ông vứt tiền bạc và hàng hóa đi, xé toạc quần áo, và dùng cán cân làm dùi cui, chạy ra sông. Ông thấy thuyền của Bồ Tát đã ở giữa sông và hét lên bảo người lái đò quay lại. Bồ Tát bình tĩnh bảo ông đừng làm vậy. Khi người bán hàng rong tham lam đứng trên bờ, chìm đắm trong hận thù và đau buồn, trái tim ông nóng bừng, máu phun ra từ môi, và trái tim ông nứt ra như bùn khô dưới ánh nắng mặt trời. Ông chết ngay tại đó, đánh dấu lần đầu tiên Đề Bà Đạt Đa, đối thủ tương lai của Bồ Tát, nảy sinh mối thù với ông.

Sau khi kể câu chuyện, Đức Phật nói: "Như vậy, người bán hàng rong ngu ngốc đã từ bỏ lòng trung thực và lòng tốt của mình đã phải chịu tổn thất lớn, trong khi người bán hàng rong khôn ngoan kiên trì làm điều đúng đắn đã nhận được phần thưởng của mình." Ngài kết luận bằng cách xác định người bán hàng rong tham lam là Đề Bà Đạt Đa và chính mình là Serivan khôn ngoan.

Sau khi nghe câu chuyện này, vị sư yếu đuối tràn đầy quyết tâm mới. Nhà sư hiểu rằng sự kiên trì, bắt nguồn từ chân lý và đức hạnh, là một phẩm chất mà sư sở hữu. Sau đó, Đức Phật dạy sư về Tứ Diệu Đế, và vị sư, được tiếp thêm sinh lực, thiền định một lần nữa và chứng đắc quả vị A La Hán.

.... o ....

J3. Serivanija Jātaka -- An elderly woman sold a golden bowl and was nearly cheated.

Summary: This story teaches that perseverance, guided by honesty and virtue, leads to true rewards, while giving up or acting out of greed results in profound loss. The Bodhisatta, once a salesman, saw a woman selling a tarnished gold bowl. Another salesman, greedy, offered little. The Bodhisatta told her its true worth, bought it, and profited. The other died of rage.

.

Once, while the Buddha was in Savatthi, a monk was brought to him by his brethren. The monk had abandoned his spiritual practice, believing himself incapable of making progress. The Buddha, aware of the monk's past, said to him, “Brother, you who have given up will suffer greatly—just like the hawker who lost a golden bowl worth a hundred thousand pieces.”

The other monks, intrigued by this statement, asked the Blessed One to explain. The Buddha then recounted a story from a past life.

Five aeons ago, in the kingdom of Seri, there lived two merchants who sold pots and pans. Both were named Serivan, but one was a wise and honest man—the Bodhisatta, a future Buddha—while the other was greedy and foolish. They traveled together to the city of Andhapura, where they divided the streets to hawk their wares.

On a certain street, the greedy hawker came upon a house that had once belonged to a wealthy family. Now, only an old woman and her granddaughter lived there, having fallen on hard times. When the granddaughter asked her grandmother for a trinket, the old woman offered the hawker an old, dirty bowl that was of no use to them.

The hawker took the bowl and, scratching a line on its back with a needle, discovered it was made of solid gold. But his greed made him desire the bowl without paying for it. He declared it worthless, threw it on the ground, and stormed out of the house—planning to return later, when the women were desperate, and take the bowl without giving anything in return.

After he left, the wise Serivan hawker came to the same house, crying out, “Waterpots to sell! Waterpots to sell!” The old woman, remembering the harshness of the first hawker, was hesitant. But her granddaughter saw the kindness in this new man and convinced her to let him in. The women offered him the same bowl, explaining that the first hawker had called it worthless.

The Bodhisatta took the bowl and immediately recognized its value. “Mother,” he said, “this bowl is worth a hundred thousand pieces of money. I do not have enough to pay for it.”

The old woman, astonished, believed the bowl had turned to gold through the power of his goodness. She insisted he take it and give them whatever he could. The Bodhisatta gave them all the money he had—five hundred pieces—and goods of equal value, keeping only his scales, his bag, and eight coins. He then rushed to the river, paid the ferryman, and began to cross.

Meanwhile, the greedy hawker returned, hoping to get the bowl for nothing. But the old woman confronted him, saying, “You lied to us! An upright hawker gave us a thousand pieces for that golden bowl and took it away.”

A terrible rage and sorrow seized the greedy hawker. He realized he had lost a fortune. He threw his money and goods away, tore off his clothes, and, using the beam of his scales as a club, ran to the river. He saw the Bodhisatta’s boat already in the middle of the river and shouted for the ferryman to turn back. The Bodhisatta calmly told him not to. As the greedy hawker stood on the bank, consumed by hatred and sorrow, his heart grew hot, blood gushed from his lips, and it cracked like dry mud in the sun. He perished right there—marking the first time Devadatta, the Bodhisatta’s future rival, conceived a grudge against him.

After telling the story, the Buddha said, “In this way, the foolish hawker who gave up on honesty and kindness suffered great loss, while the wise hawker who persevered in doing what was right found his reward.” He concluded by identifying the greedy hawker as Devadatta and himself as the wise Serivan.

Upon hearing this tale, the fainthearted monk was filled with new resolve. He understood that perseverance, rooted in truth and goodness, was a quality he possessed. The Buddha then taught him the Four Truths, and the monk, reinvigorated, meditated once more and was established in Arahatship.

.... o ....

J4. Cullaka-Setthi Jātaka -- Trí tuệ và kiên trì giúp một chàng trai thành công.

Tóm tắt: Ngay cả sự khởi đầu nhỏ nhất, khi có sự kiên trì và trí tuệ, cũng có thể dẫn đến sự chuyển đổi lớn lao. Bồ Tát, xưa kia là quan quản lý kho bạc của hoàng gia, có tài xem tướng. Thấy một con chuột chết dưới những vì sao may mắn, ngài nói rằng nó có thể mang lại sự giàu có và tình yêu. Một chàng trai trẻ đã bán nó làm thức ăn cho mèo, trở nên giàu có chỉ sau vài tháng và kết hôn với con gái của Bồ Tát. Có thể tham khảo Kinh Pháp Cú, bài Kệ số 25, về ngài Châu Lợi Bàn Đặc.

.

Ngày xưa, một vị sư trẻ tên là Little Wayman được đưa đến trước Đức Phật. Mặc dù đã học bốn tháng, nhưng chàng vẫn chưa thuộc một bài kệ nào. Anh trai của chàng, nhà sư Great Wayman, thất vọng vì sự chậm tiến của người em, đã bảo chàng rời khỏi tu viện và trở về đời sống thế tục. Nản lòng, Little Wayman định trở về thế tục—nhưng khi chàng đang rời đi, chàng nhìn thấy Đức Phật.

Đức Phật, nhận ra sự tuyệt vọng của chàng, đã ngăn chàng lại và nói: “Little Wayman, con đã phát nguyện theo ta. Tại sao lại bỏ đi chỉ vì anh trai con đuổi con đi? Hãy ở lại với ta.” Sau đó, Ngài đưa cho chàng một tấm vải sạch và bảo chàng ngồi hướng mặt về phía đông, niệm câu: “Lau bụi.” Little Wayman vâng lời, nhưng khi chàng cầm tấm vải, nó bị vấy bẩn bởi bụi đất và mồ hôi. Bỗng nhiên, chàng trải nghiệm một sự thấu hiểu sâu sắc: “Cũng như tấm vải này, vạn vật đều vô thường! Chính thân thể của ta đã mất đi sự thanh tịnh ban đầu.” Khi hiểu được chân lý này, chàng tràn đầy sự hiểu biết sâu sắc.

Đức Phật, nhận ra tâm trí của Little Wayman đã khai mở, đã hiện ra trước mắt nhà sư trẻ trong một linh ảnh và nói: "Đừng lo lắng về sự ô uế của tấm vải. Bên trong con là những ô uế thực sự của dục vọng, sân hận và si mê. Hãy tẩy sạch chúng." Nghe những lời này, Little Wayman bừng giác ngộ, và tất cả những kinh điển mà cậu đã phải vật lộn để hiểu bỗng trở nên rõ ràng với cậu.

Đức Phật sau đó giải thích với các vị tỳ kheo đang tụ họp: "Nhờ ta, Little Wayman giờ đây đã vươn lên đến đỉnh cao của đức tin - giống như trong một kiếp trước, nhà sư này đã đạt được sự giàu có nhờ ta."

Sau đó, Ngài kể một câu chuyện từ một kiếp trước, khi Ngài còn là một người đàn ông tên là Treasurer Little ở Benares - một người đàn ông thông thái và tinh tường. Một ngày nọ, Ngài nhìn thấy một con chuột chết nằm trên đường và tuyên bố: "Bất kỳ chàng trai trẻ thông minh nào cũng có thể dùng con chuột này để khởi nghiệp và làm giàu." Một thanh niên nghèo nhưng xuất thân từ gia đình danh giá nghe được điều này, tin vào lời của Treasurer Little, và nhặt con chuột lên. Anh ta bán nó với giá một đồng xu cho một chủ quán rượu để đổi lấy con mèo của họ.

Với đồng xu của mình, chàng mua mật mía và nước ngọt. Chàng đưa mật mía cho những người hái hoa đang khát, và họ đáp lại chàng bằng những nắm hoa. Chàng bán hoa với giá tám xu. Một ngày mưa gió, chàng thấy người làm vườn của nhà vua đang vất vả dọn dẹp một đống cành lá gãy. Người làm vườn đề nghị dọn dẹp tất cả để đổi lấy gỗ và lá. Chàng thuê trẻ em giúp việc để đổi lấy mật mía và thu thập được một đống nhiên liệu lớn. Người thợ gốm của nhà vua, cần nhiên liệu cho lò nung, đã mua gỗ và lá với giá mười sáu xu và năm cái bát.

Với hai mươi bốn xu, chàng trai trẻ mua một bình nước và cung cấp cho năm trăm người cắt cỏ. Khi họ hỏi họ có thể làm gì cho chàng, chàng nói rằng chàng sẽ ghé thăm họ khi cần. Ngay sau đó, chàng biết được rằng một người buôn ngựa sắp đến thị trấn với năm trăm con ngựa. Chàng đến gặp những người cắt cỏ và yêu cầu họ đưa cho chàng một bó cỏ và không được bán cỏ của họ cho đến khi bán được cỏ của chàng. Những người cắt cỏ đưa cho chàng năm trăm bó cỏ, chàng bán cho người buôn ngựa với giá một ngàn đồng tiền, vì không còn loại cỏ nào khác.

Cuối cùng, chàng nghe tin một con tàu lớn đã cập cảng. Chàng thuê một cỗ xe ngựa sang trọng và ra bến cảng. Chàng mua chịu con tàu, dùng chiếc nhẫn của mình làm vật thế chấp, và dựng một cái lều. Khi những thương gia khác đến mua hàng, họ được báo rằng hàng đã được bán rồi. Họ liền đến gặp chàng trai trẻ và mua cổ phần trên tàu từ chàng. Cuối cùng, chàng trở về Benares với hai trăm ngàn đồng tiền.

Vì lòng biết ơn, chàng đến gặp Treasurer Little để cảm ơn và đề nghị tặng một trăm ngàn đồng tiền. Ấn tượng trước sự thông minh của chàng trai trẻ, Treasurer Little đã sắp xếp cho chàng kết hôn với con gái mình và chọn chàng làm người thừa kế. Sau khi Treasurer Little qua đời, chàng trai trẻ trở thành Thủ quỹ mới của thành phố.

Đức Phật kết thúc câu chuyện bằng cách tiết lộ rằng Ngài từng là Treasurer Little trong một kiếp trước, và chàng trai trẻ thông minh đã từ một con chuột chết vươn lên thành đại gia chính là Little Wayman. Khi nghe câu chuyện này, mọi nghi ngờ của Little Wayman tan biến. Cậu nhận ra rằng đức tính kiên trì mà cậu từng nghĩ mình thiếu thực ra chính là bản chất thật sự của mình. Câu chuyện đã cho cậu sự tự tin cần thiết để hoàn toàn lĩnh hội giáo lý của Đức Phật và cuối cùng đạt được giác ngộ.

.... o ....

J4. Cullaka-Setthi Jātaka -- Intelligence and perseverance helped a young man succeed.

Summary: Even the smallest beginning, when met with perseverance and wisdom, can lead to great transformation. The Bodhisatta, once a royal treasurer, read omens well. Seeing a dead mouse under lucky stars, he said it could bring wealth and love. A young man sold it as cat food, grew rich in months, and married the Bodhisatta’s daughter. You can refer to the Dhammapada, verse 25, which discusses the Venerable Culapanthaka.

.

Once, a young monk named Little Wayman was brought before the Buddha. Despite studying for four months, he had not memorized a single stanza of scripture. His brother, Great Wayman, frustrated by his lack of progress, told him to leave the monastery and return to lay life. Discouraged, Little Wayman planned to do just that—but as he was leaving, he saw the Buddha.

The Buddha, aware of his despair, stopped him and said, “Little Wayman, you took your vows under me. Why leave simply because your brother has cast you out? Stay with me.” He then gave him a clean cloth and instructed him to sit facing east, repeating the words, “Removal of Impurity.” Little Wayman obeyed, but as he handled the cloth, it became soiled with dirt and sweat. Suddenly, he experienced a profound insight: “Just like this cloth, all things are impermanent! My own body has lost its original purity.” As he grasped this truth, he was filled with deep understanding.

The Buddha, aware that Little Wayman’s mind had now opened, appeared to him in a vision and said, “Do not worry about the impurity of mere cloth. Within you lie the true impurities of lust, wrath, and delusion. Remove them.” Upon hearing these words, Little Wayman attained enlightenment, and all the sacred texts he had struggled to understand became instantly clear to him.

The Buddha then explained to the gathered monks, “Through me, Little Wayman has now risen to great heights in the Faith—just as, in a past life, he rose to great wealth through me.”

He then told a story from a past life, when he was a man named Treasurer Little in Benares—a wise and observant man. One day, he saw a dead mouse lying in the road and declared, “Any clever young man could use this mouse to start a business and make a fortune.” A poor but well-born youth overheard this, believed Treasurer Little’s words, and picked up the mouse. He sold it for a farthing to a tavern owner for their cat.

With his farthing, he bought molasses and fresh water. He gave the molasses to thirsty flower gatherers, who repaid him with handfuls of flowers. He sold the flowers for eight pennies. One rainy, windy day, he noticed the king’s gardener struggling to clear away a pile of broken branches and leaves. He offered to clear it all in exchange for the wood and leaves. He hired children to help him in exchange for molasses and collected a large pile of fuel. The king’s potter, needing fuel for his kiln, bought the wood and leaves for sixteen pennies and five bowls.

With his twenty-four pennies, the young man bought a jar of water and supplied it to five hundred mowers. When they asked what they could do for him, he told them he would call on them when needed. Soon after, he learned that a horse dealer was coming to town with five hundred horses. He went to the mowers and asked them to give him a bundle of grass and not to sell their own until his was sold. The mowers gave him five hundred bundles of grass, which he sold to the horse dealer for a thousand pieces of money, as no other grass was available.

Finally, he heard that a large ship had arrived at the port. He hired a fine carriage and went to the harbor. He purchased the ship on credit, using his signet ring as collateral, and set up a pavilion. When other merchants came to buy the cargo, they were told it had already been sold. They then approached the young man and bought shares in the ship from him. In the end, he returned to Benares with two hundred thousand pieces of money.

Out of gratitude, he went to Treasurer Little to thank him and offered one hundred thousand pieces of money. Impressed by the young man’s wit, Treasurer Little arranged for him to marry his daughter and made him his heir. After Treasurer Little’s death, the young man became the new treasurer of the city.

The Buddha concluded the story by revealing that he had been Treasurer Little in a past life, and the clever young man who rose from a dead mouse to great wealth was Little Wayman. Upon hearing this tale, Little Wayman’s doubts vanished. He realized that the perseverance he believed he lacked was, in fact, his true nature. The story gave him the confidence he needed to fully embrace the Buddha’s teachings and ultimately achieve enlightenment.

.... o ....

J5. Tandulanali Jātaka -- Chuyện người bán năm trăm con ngựa.

Tóm tắt: Sự ngu dốt dai dẳng, nếu không được kiểm chứng, có thể theo ta suốt đời, gây hại cho cả bản thân lẫn người khác. Bồ Tát, xưa kia là một vị thẩm định giá của hoàng gia, đã đưa ra những mức giá hợp lý. Một vị vua tham lam đã thay thế ông bằng một người nông dân chuyên ép giá người bán. Khi ông ta định giá một đấu gạo bằng cả thành phố, nhà vua tỏ ra ngớ ngẩn và đã phục chức cho Bồ Tát.

.

Câu chuyện này được Đức Phật kể lại khi Ngài ở Jetavana, về một vị sư tên là Udayi, nổi tiếng là người chậm hiểu.

Lúc bấy giờ, một vị sư tên là Dabba phụ trách việc phân phát phiếu gạo cho chư tăng. Có lúc gạo chất lượng cao, có lúc lại kém chất lượng. Khi Udayi nhận được gạo kém chất lượng, ông thường lớn tiếng phàn nàn, làm gián đoạn việc phân phát. Một hôm, các vị sư khác, chán ngán những lời phàn nàn của ông, đã đưa phiếu gạo cho ông để tự phân phát.

Tuy nhiên, Udayi lại vụng về đến mức không thể phân biệt được gạo ngon và gạo kém, cũng không nhớ được vị sư nào cần nhận loại gạo nào. Ông cố gắng sắp xếp việc phân phối bằng cách đánh dấu trên mặt đất, nhưng lại trở nên bối rối vô vọng mỗi khi số lượng các vị sư thay đổi. Khi những người khác cố gắng sửa sai, Udayi chỉ nói: "Ta tin vào dấu hiệu của ta, không tin vào các ngươi." Bực bội, các vị sư khác - đặc biệt là các sa di trẻ tuổi - bắt đầu gọi ông là "Udayi đồ khờ" và cuối cùng đuổi ông ra khỏi phòng, gây ra một sự náo động lớn.

Nghe thấy tiếng ồn ào, Đức Phật hỏi vị đại đệ tử của mình, Ananda, về nguyên nhân của nó. Khi Ananda giải thích sự việc, Đức Phật nói: "Đây không phải lần đầu tiên sự ngu ngốc của Udayi gây ra vấn đề. Ông ta đã hành xử như vậy trong một kiếp trước."

Các nhà sư thỉnh cầu Đức Phật kể lại câu chuyện.

Trong một tiền kiếp, có một vị vua ở Benares có một viên quan định giá rất thông thái—một người đó chính là Bồ Tát, một vị Phật tương lai. Tuy nhiên, nhà vua lại tham lam và tin rằng người định giá thông thái đang làm mình tốn kém. Ngài quyết định tìm một người định giá mới để phục vụ lợi ích của mình. Vua đã chọn một người nông dân ngốc nghếch và tham lam mà ngài nhìn thấy đang đi dạo trong sân nhà mình. Người định giá mới này, một kẻ hoàn toàn ngu ngốc, đã định giá hàng hóa dựa trên ý thích của riêng mình thay vì giá trị thực tế của chúng.

Một ngày nọ, một người buôn ngựa từ phương Bắc mang theo năm trăm con ngựa. Nhà vua sai người định giá mới đến để định giá chúng. Kẻ ngốc tuyên bố giá của cả năm trăm con ngựa là một đấu gạo. Nhà vua, hài lòng với mức giá có vẻ thấp, đã cho người đưa ngựa về chuồng.

Người buôn ngựa bối rối đến gặp người định giá thông thái trước đây và xin lời khuyên. Bồ Tát, thấy cơ hội để vạch trần sự ngu ngốc của người định giá mới, đã nói với người buôn ngựa: "Hãy quay lại và hối lộ anh ta. Sau đó yêu cầu anh ta giải thích giá trị của một đấu gạo."

Người buôn ngựa làm theo lời dặn. Người này hối lộ tên ngốc và yêu cầu hắn khai báo giá trị của đấu gạo trước mặt nhà vua. Tên ngốc, vì muốn khoe khoang, đã đồng ý.

Khi được đưa đến trước mặt nhà vua, tên buôn ngựa nói: "Tôi không tranh cãi về việc ngựa của tôi đáng giá một đấu gạo, nhưng tôi muốn biết đấu gạo đó đáng giá bao nhiêu."

Nhà vua quay sang người định giá và hỏi: "Nếu năm trăm con ngựa đáng giá một đấu gạo, thì đấu gạo đó đáng giá bao nhiêu?"

Kẻ ngốc, với vẻ mặt nghiêm nghị, đáp: "Nó đáng giá cả Benares và các vùng phụ cận!"

Các quan đại thần và triều thần bật cười, vỗ tay và reo hò: "Chúng tôi cứ tưởng vương quốc của mình vô giá! Giờ thì biết nó chỉ đáng giá một đấu gạo!"

Xấu hổ và nhục nhã, nhà vua lập tức đuổi người định giá ngu ngốc kia đi và phục chức cho người thông thái.

Đức Phật kết thúc câu chuyện bằng cách xác định các nhân vật: “Người định giá thô lỗ, ngu ngốc của thời đó là Udayi, kẻ khờ, và chính ta là người định giá khôn ngoan.” Câu chuyện cho thấy rõ ràng rằng sự thiếu hiểu biết dai dẳng của Udayi không phải là sự phát triển gần đây, mà Udayi đã mang theo từ kiếp trước.

.... o ....

J5. Tandulanali Jātaka -- The story of the man who sold five hundred horses.

Summary: Persistent ignorance, when left unexamined, can follow a person across lifetimes, causing harm to both oneself and others. The Bodhisatta, once a royal appraiser, gave fair prices. A greedy king replaced him with a peasant who lowballed sellers. When he valued a measure of rice as worth the whole city, the king looked foolish and reinstated the Bodhisatta.

.

This story was told by the Buddha while at Jetavana, about a monk named Udayi, who was known for his dullness.

At that time, a monk named Dabba was responsible for distributing rice vouchers to the brotherhood. Sometimes the rice was of high quality, and other times it was inferior. When Udayi received inferior rice, he would complain loudly, disrupting the process. One day, the other monks, tired of his complaints, gave him the vouchers to distribute himself.

However, Udayi was so inept that he could not distinguish between superior and inferior rice, nor could he remember which monks were entitled to which quality. He attempted to organize the distribution by making marks on the ground, but became hopelessly confused whenever the number of monks changed. When others tried to correct him, he would simply say, “I trust my mark, not you.” Frustrated, the other monks—especially the young novices—began calling him "Udayi the Dullard" and eventually drove him from the check-room, causing a great commotion.

Hearing the noise, the Buddha asked his chief disciple, Ananda, about its cause. When Ananda explained the situation, the Buddha said, “This is not the first time Udayi’s foolishness has caused problems. He behaved the same way in a past life.”

The monks asked the Buddha to tell the story.

In a past life, there was a king in Benares who had a very wise valuer—a man who was the Bodhisatta, a future Buddha. However, the king was greedy and believed the wise valuer was costing him money. He decided to find a new valuer who would serve his interests. He chose a foolish and greedy peasant whom he saw walking in his courtyard. This new valuer, a complete fool, set prices for goods based on his own whims rather than their actual worth.

One day, a horse dealer arrived from the north with five hundred horses. The king sent his new appraiser to assess them. The fool declared the price for all five hundred horses to be a single measure of rice. The king, pleased with the seemingly low price, had the horses taken to the stable.

The confused horse dealer went to the wise former valuer and asked for advice. The Bodhisatta, seeing an opportunity to expose the new valuer’s foolishness, told the horse dealer, “Go back and offer him a bribe. Then ask him to explain the value of a measure of rice.”

The horse dealer did as instructed. He bribed the fool and asked him to declare the value of the measure of rice in the king’s presence. The fool, eager to show off, agreed.

When they were brought before the king, the horse dealer said, “I do not dispute that my horses are worth one measure of rice, but I would like to know what that measure of rice is worth.”

The king turned to his valuer and asked, “If five hundred horses are worth one measure of rice, what is the value of that measure of rice?”

The fool, with a straight face, replied, “It is worth all of Benares and its suburbs!”

The ministers and courtiers burst into laughter, clapping their hands and shouting, “We thought our kingdom was priceless! Now we know it is worth only a single measure of rice!”

Ashamed and humiliated, the king immediately dismissed the foolish appraiser and reinstated the wise one.

The Buddha concluded the tale by identifying the characters: “The foolish rustic valuer of those days was Udayi the Dullard, and I myself was the wise valuer.” The story made it clear that Udayi’s persistent ignorance was not a recent development, but a folly he had carried with him from a past life.

.... o ....

J6. Devadhamma Jātaka --  Điều gì thực sự giống như thần thánh?

Tóm tắt: Đức Phật kể câu chuyện về các hoàng tử vào rừng chờ cha băng hà. Một con thủy quái bắt được hai anh em vì họ không định nghĩa được cụm từ "thật sự giống như thần linh". Bồ Tát đưa ra câu trả lời đúng, và họ được giải thoát.

.

Ngày xưa, một người đàn ông giàu có ở Savatthi đã xuất gia sau khi vợ ông qua đời. Tuy nhiên, lòng sùng đạo của ông lại khác thường. Trước khi gia nhập tăng đoàn, ông đã xây một phòng riêng, một lò sưởi và một nhà kho, nơi ông tích trữ lương thực. Ông tiếp tục sống theo cách này, với người hầu chuẩn bị bữa ăn và một kho quần áo đẹp.

Một hôm, một số nhà sư đến thăm nhìn thấy tất cả tài sản của ông. "Thưa Thầy," họ nói, "Đức Thế Tôn dạy chúng con sống giản dị, chỉ với ba chiếc y. Tại sao Thầy lại có nhiều như vậy?" Họ kinh ngạc đến nỗi đã đưa ông đến gặp Đức Phật.

Đức Phật hỏi: "Tại sao ông lại tích trữ những tài sản này? Chẳng phải Ta dạy về sự biết đủ và giản dị sao?" Nhà sư giàu có, tức giận vì bị khiển trách, đã cởi bỏ y phục và đứng đó chỉ mặc một chiếc khố. Đức Phật sau đó kể cho ông nghe một câu chuyện.

Ngày xưa, ở vương quốc Kasi, vua Brahmadatta có một người con trai tên là Hoàng tử Mahimsasa. Sau đó, một người con trai khác ra đời, Hoàng tử Mặt Trăng. Sau khi mẹ mất, nhà vua cưới một hoàng hậu mới. Bà sinh ra một hoàng tử, Hoàng tử Mặt Trời, và trong niềm vui sướng, nhà vua hứa ban cho bà mọi điều tốt lành. Nhiều năm sau, bà đòi truyền ngôi cho con trai. Lo sợ bà sẽ làm hại các con trai lớn của mình, nhà vua đã khóc lóc đuổi họ đi lưu đày.

Hoàng tử Mặt Trời, chứng kiến các anh trai mình ra đi, đã nhất quyết muốn đi cùng họ. Ba người lên đường vào dãy Himalaya. Mahimsasa, người anh cả, sai Hoàng tử đến một hồ nước gần đó để lấy nước. Hồ nước này được canh giữ bởi một con quỷ nước, được giao nhiệm vụ ăn thịt bất cứ ai xuống nước trừ khi họ biết "điều gì thực sự giống thần thánh".

Khi Hoàng tử Mặt Trời đến, con quỷ đã tóm lấy chàng. "Ngươi có biết điều gì thực sự giống thần thánh không?" nó hỏi.

"Có," Hoàng tử Mặt Trời trả lời, "mặt trời và mặt trăng!"

"Ngươi không biết," con quỷ nói và kéo hoàng tử xuống nước.

Hoàng tử Mặt Trăng đi tiếp và cũng chịu chung số phận.

Biết có điều gì đó không ổn, người anh cả, Mahimsasa, đã đi đến hồ nước. Chàng thấy dấu chân các em dẫn xuống nước nhưng không ai ra. Nghi ngờ có quỷ, chàng quyết định chờ.

Con quỷ cải trang thành người kiểm lâm tiến lại gần chàng. "Trông chàng mệt mỏi quá. Sao không vào tắm đi?"

Mahimsasa biết đó là quỷ. "Ngươi có các anh em của ta. Ta sẽ không xuống cho đến khi ngươi trả lại họ."

Con quỷ thừa nhận hành động của mình và giải thích luật lệ của hồ bơi. Mahimsasa, vốn luôn thông thái, nói: "Nếu ngươi muốn biết điều gì thực sự giống thần thánh, ta sẽ nói cho ngươi biết. Nhưng ta đã mệt mỏi sau chuyến đi."

Con quỷ, tò mò, tắm rửa cho hoàng tử, cho chàng ăn và chuẩn bị một chiếc giường êm ái. Khi đã thoải mái, Mahimsasa ngồi xuống và nói: "Chỉ những ai tránh xa điều ác và bình thản cống hiến cho điều thiện mới thực sự được gọi là giống thần thánh."

Hài lòng với câu trả lời, con quỷ đề nghị trả lại một người em. "Hãy mang người em út đến cho ta," Mahimsasa nói.

"Ngươi thông thái," con quỷ đáp, "nhưng ngươi không hành động theo sự thông thái của mình. Tại sao ngươi lại chọn người út thay vì người anh?"

"Ta hành động theo trí tuệ," Mahimsasa giải thích. "Cha ta đã đày ải chúng ta vì mẹ của người em út muốn kế vị ngai vàng cho anh ta. Anh ta đã chọn đi theo chúng ta vào chốn hoang dã. Nếu ta trở về mà không có anh ta, sẽ không ai tin rằng anh ta đã bị quỷ bắt đi; họ sẽ nghĩ rằng ta đã bỏ rơi anh ta để tự cứu mình. Ta chọn anh ta vì ta sợ bị sỉ nhục và mất danh dự."

Con quỷ vô cùng ấn tượng. "Tuyệt vời! Ngươi không chỉ hiểu được điều gì thực sự giống như thần thánh mà còn là hiện thân của điều đó." Nói xong, ngài trả cả hai anh em về cho Mahimsasa.

Sau đó, Mahimsasa khuyên con quỷ từ bỏ đường lối xấu xa. Ngài giải thích rằng hình dạng hiện tại của con quỷ là hậu quả của những tội lỗi trong quá khứ và cảnh báo rằng nếu tiếp tục sống cuộc đời tội lỗi, nó sẽ phải chịu một sự tái sinh thậm chí còn tồi tệ hơn. Con quỷ lắng nghe và được chuyển hóa.

Sau đó, Mahimsasa nhìn thấy từ trên trời rằng cha mình đã qua đời. Ngài trở về vương quốc cùng với các anh em và con quỷ nước. Ngài bổ nhiệm các anh em mình vào những vị trí cao cấp và tạo ra một ngôi nhà an toàn, xinh đẹp cho con quỷ đã cải tà quy chính. Mahimsasa cai trị vương quốc của mình bằng sự chính trực và danh dự.

Đức Phật kết thúc câu chuyện và nói với các nhà sư rằng ngài là Hoàng tử Mahimsasa. Nhà sư giàu có chính là con quỷ nước, và hai hoàng tử còn lại là đệ tử của ngài, Ananda và Sariputta. Nhà sư giàu có, giờ đây đã hiểu được tầm quan trọng của danh dự và sự ô nhục, đã mặc lại y áo. Bài học của Đức Phật đã khôi phục lại tinh thần trách nhiệm và sự giản dị của ngài, giúp ngài đi theo con đường chính nghĩa.

.... o ....

J6. Devadhamma Jātaka -- What is truly godlike?

Summary: The Buddha tells a story about princes who enter a forest, awaiting their father's death. A water demon captures two brothers who fail to define the term "truly godlike." The Bodhisatta provides the correct answer, and they are set free.

.

Long ago, a wealthy man in Savatthi became a monk after his wife passed away. However, his devotion was unconventional. Before joining the order, he built a personal chamber, a fireplace, and a storeroom, which he stocked with food. He continued to live in this manner, with servants preparing his meals and a supply of fine clothes.

One day, some visiting monks saw all his possessions. “Sir,” they said, “the Blessed One teaches us to live simply, with only three robes. Why do you have so many?” They were so dismayed that they took him to the Buddha.

The Buddha asked, “Why have you amassed these belongings? Do I not teach contentment and simplicity?” The wealthy monk, angered by the rebuke, stripped off his robes and stood there wearing only a loincloth. The Buddha then told him a story.

Once, in the kingdom of Kasi, King Brahmadatta had a son named Prince Mahimsasa. Later, another son was born, Prince Moon. After their mother died, the king married a new queen. She gave birth to a son, Prince Sun, and in his joy, the king promised her any boon. Years later, she demanded the throne for her son. Fearing she would harm his elder sons, the king tearfully sent them into exile.

Prince Sun, seeing his brothers depart, insisted on joining them. The three journeyed into the Himalayas. Mahimsasa, the eldest, sent Sun to a nearby pool to fetch water. This pool was guarded by a water demon, who was tasked with devouring anyone who entered the water unless they knew "what is truly godlike."

When Prince Sun arrived, the demon seized him. "Do you know what is truly godlike?" it demanded.

"Yes," replied Sun, "the sun and the moon!"

"You don't know," the demon said as he dragged the prince underwater.

Prince Moon went next and met the same fate.

Knowing something was wrong, the eldest brother, Mahimsasa, went to the pool. He saw his brothers' footprints leading into the water but none coming out. Suspecting a demon, he decided to wait.

The demon, disguised as a forester, approached him. "You look worn out. Why not go in for a bath?

Mahimsasa knew it was the demon. "You have my brothers. I won't go in until you return them."

The demon admitted his deed and explained the rule of the pool. Mahimsasa, ever wise, said, “If you wish to know what is truly godlike, I will tell you. But I am weary from my journey.”

The demon, intrigued, bathed the prince, fed him, and prepared a soft couch. Once comfortable, Mahimsasa sat down and said, "Only those who avoid wrongdoing and calmly devote themselves to goodness are truly called godlike."

Pleased with the answer, the demon offered to return one brother. "Bring me the youngest," Mahimsasa said.

"You are wise," the demon replied, "but you do not act on your wisdom. Why do you choose the youngest over the elder?"

"I act on wisdom," Mahimsasa explained. "Our father exiled us because the youngest brother's mother wanted the throne for him. He chose to follow us into the wilderness. If I were to return without him, no one would believe he was taken by a demon; they would think I had abandoned him to save myself. I choose him because I fear shame and dishonor."

The demon was deeply impressed. "Excellent! You not only understand what is truly godlike—you embody it." With that, he returned both brothers to Mahimsasa.

Mahimsasa then advised the demon to renounce his evil ways. He explained that the demon's current form was a consequence of past sins and warned that persisting in his wicked life would result in an even worse rebirth. The demon listened and was transformed.

Later, Mahimsasa saw from the stars that his father had passed away. He returned to his kingdom with his brothers and the water demon. He appointed his brothers to high-ranking positions and provided a safe, beautiful home for the reformed demon. Mahimsasa ruled his kingdom with righteousness and honor.

The Buddha finished his story and told the monks that he was Prince Mahimsasa. The wealthy monk was the water demon, and the other two princes were his disciples, Ananda and Sariputta. The wealthy monk, now understanding the importance of honor and shame, put his robes back on. The Buddha's lesson had restored his sense of duty and simplicity, enabling him to follow the righteous path.

.... o ....

J7. Katthahari Jātaka -- Người lượm củi

Tóm tắt: Vua Kosala từ bỏ hoàng hậu và con trai mình khi biết bà xuất thân thấp hèn. Đức Phật thuyết phục ông bằng cách kể lại một kiếp trước, trong đó Bồ Tát, con trai của một vị vua, đã chính đáng giành được địa vị trong triều đình.

.

Ngày xưa, một vị vua xứ Kosala có một hoàng hậu tên là Vasabha-Khattiya. Nàng là con gái của một quý tộc dòng Thích Ca, Mahanama, và một nữ tỳ. Khi phát hiện ra thân phận thấp hèn của nàng, nhà vua vô cùng tức giận. Ngài hạ nhục cả hoàng hậu và con trai bà, Vidudabha, rồi giam họ trong cung điện.

Đức Phật nghe tin, liền đến cung điện của nhà vua. "Thưa bệ hạ," ngài hỏi, "Vasabha-Khattiya đâu rồi?" Nhà vua kể lại sự việc.

Đức Phật bèn thưa với nhà vua: "Tâu bệ hạ, nàng là con gái của một vị vua, đã kết hôn với một vị vua và sinh ra một hoàng tử. Tại sao bệ hạ lại làm nhục họ? Trong một kiếp trước, một vị vua đã trao toàn bộ vương quốc của mình cho người con trai mà ngài có với một cô gái lượm củi." Nhà vua tò mò, thỉnh cầu Đức Phật giải thích.

Đức Phật bắt đầu câu chuyện. Một lần, vua Brahmadatta xứ Benares đến khu vườn của mình. Ở đó, ngài gặp một người thiếu nữ đang vui vẻ lượm củi. Ông yêu cô và trao cho cô chiếc nhẫn ấn tín của mình. "Nếu sinh con gái, hãy dùng chiếc nhẫn này để nuôi dạy con. Nếu là con trai, hãy mang nó và chiếc nhẫn đến cho ta."

Sau đó, cô gái sinh ra một người con trai, chính là Bồ Tát. Khi cậu bé đủ lớn để chơi đùa, những đứa trẻ khác thường trêu chọc cậu: "Đồ không cha đánh tui nè!" Bối rối và đau lòng, cậu bé hỏi mẹ xem cha mình là ai. Bà cho cậu xem chiếc nhẫn của nhà vua và nói rằng cậu là con trai của vua Benares.

Cậu bé nhất quyết muốn gặp cha. Vì vậy, mẹ cậu đưa cậu đến cung điện. Bà cho nhà vua xem chiếc nhẫn ấn tín và nói: "Thưa bệ hạ, đây là con trai của bệ hạ." Nhưng nhà vua, xấu hổ trước triều đình, đã phủ nhận điều đó. "Nó không phải là con trai của ta, và chiếc nhẫn đó cũng không phải của ta."

Tuyệt vọng, người phụ nữ cầu xin nhà vua thừa nhận con trai của họ. Khi nhà vua từ chối, bà đã khẩn thiết cầu xin sự thật. “Nếu ngài là cha của nó, xin cho con trai tôi được ở lại trên không trung. Nếu không, xin cho nó rơi xuống và sẽ bị chết!” Nói xong, nàng ném cậu bé lên không trung.

Thật kỳ diệu, Bồ Tát bay lơ lửng giữa không trung. Ngài nhìn cha mình và đọc một bài kệ bằng giọng tuyệt đẹp: "Con là con của cha, thưa Đức Vua vĩ đại - xin hãy nuôi dưỡng con, thưa Đức Vua! Cha quan tâm đến người khác, nhưng hơn cả con của chính mình."

Nhà vua vô cùng xúc động, dang tay ra và kêu lên: "Hãy đến với con, con trai của ta!" Cậu bé bay vào vòng tay cha. Nhà vua lập tức phong cậu làm phó vương và mẹ làm hoàng hậu. Sau khi cha băng hà, Bồ Tát lên ngôi vua, trị vì bằng trí tuệ và chính nghĩa dưới danh hiệu Vua Katthavahana, "Vua gánh củi".

Sau khi kết thúc bài giảng của mình với Vua Kosala, Đức Phật đã chỉ ra mối liên hệ giữa họ và xác định Tiền thân bằng cách nói rằng, “Ngày đó, Mahamaya là mẹ, Vua Suddhodana là cha, và chính ta là vua Katthavahana.”

Nhà vua, cảm thấy xấu hổ và giác ngộ, đã phục hồi chức vụ chính đáng của Vasabha-Khattiya và Vidudabha.

.

J7. Katthahari Jātaka -- The Wood Gatherer

Summary: The Kosala king rejects his queen and son upon learning of her low birth. The Buddha persuades him by recounting a past life in which he, born to a king, rightfully claimed his place at court.

.

Long ago, the king of Kosala had a queen named Vasabha-Khattiya. She was the daughter of Mahanama, a Sakyan nobleman, and a slave girl. When the king discovered her humble origins, he became furious. He degraded both the queen and her son, Vidudabha, confining them within the palace.

The Buddha, upon hearing this, went to the king's palace. "Sire," he asked, "where is Vasabha-Khattiya?" The king then told him what had happened.

The Buddha then spoke to the king. “Sire, she is a king's daughter who married a king and bore a king's son. Why do you disgrace them? In a previous life, a king gave his entire kingdom to a son he had with a casual brushwood-gatherer.” The king, intrigued, asked the Buddha to explain.

The Buddha began his story: Once, the king of Benares, Brahmadatta, went to his pleasure garden. There, he met a woman who was happily gathering sticks. He fell in love with her and gave her his signet ring. "If you bear a daughter, use this ring to raise her. If it is a son, bring him and the ring to me."

Later, the woman gave birth to a son, who was the Bodhisatta. When the boy was old enough to play, the other children would taunt him, saying, "No-father has hit me!" Confused and hurt, the boy asked his mother who his father was. She showed him the king's ring and told him that he was the son of the king of Benares.

The boy insisted on meeting his father, so his mother took him to the palace. She showed the king the signet ring and said, “This is your son, sire.” However, the king, ashamed before his court, denied it. “He is not my son, nor is that my ring.”

Desperate, the woman pleaded with the king to acknowledge their son. When he refused, she made a heartfelt appeal to the truth. “If you are his father, may my son remain in the air. If not, may he fall and be killed!” With that, she threw the boy into the air.

Miraculously, the Bodhisatta floated in midair. He looked at his father and, in a beautiful voice, recited a verse:

"I’m your son, great king—please raise me, Father! You care for others, but you care even more for your own child."

The king, deeply moved, stretched out his hands and cried, “Come to me, my son!” The boy descended into his father's arms. The king immediately appointed him viceroy and his mother queen. Upon his father's death, the Bodhisatta became king, ruling with wisdom and righteousness under the name King Katthavāhana, "the brushwood-bearer."

After concluding his lesson to the King of Kosala, the Buddha drew a connection between them and identified the Birth by saying, “Mahamaya was the mother in those days, King Suddhodana was the father, and I myself am King Katthavahana.”

The king, shamed and enlightened, reinstated Vasabha-Khattiya and Vidudabha to their rightful positions.

.... o ....

J8. Gamani Jātaka -- Tinh tấn sẽ thành công.

Tóm tắt: Một nhà sư nỗ lực trong rừng nhưng thất bại. Đức Phật khiển trách ông, nhớ lại kiếp trước, khi ông là người con út trong một trăm hoàng tử, người được tôn vinh nhờ nỗ lực.

.

Câu chuyện này được Đức Phật kể tại Jetavana về một vị sư đã từ bỏ sự kiên trì.

Ngày xửa ngày xưa, vua Brahmadatta xứ Benares có một trăm người con trai. Người con út, Hoàng tử Gāmani, được đặt dưới sự dạy dỗ của Bồ Tát, một vị cận thần thông thái và uyên bác.

Nhà vua ban cho mỗi người con một tỉnh khi họ hoàn thành việc học. Tuy nhiên, đến lượt Gāmani, Bồ Tát khuyên ông nên từ chối. Ngài nói: "Con trai của ta, hãy nói với cha rằng con muốn ở bên cạnh cha với tư cách là người con út." Gāmani nghe theo lời khuyên này, và nhà vua rất vui mừng.

Theo lời khuyên của Bồ Tát, Gāmani trở thành một người không thể thiếu. Ngài xin được chăm sóc một công viên cũ, dùng hoa quả trong công viên để kết bạn với những người quyền lực nhất trong thành phố. Sau đó, ngài xin phép được quản lý tài chính của vương quốc, đảm bảo rằng mọi người đều nhận được những gì họ đáng được hưởng. Ngài quản lý mọi mặt của vương quốc, từ việc cung cấp chỗ ở cho khách nước ngoài đến việc đóng thuế cho thương nhân. Lòng tốt và sự chính trực của Gāmani khiến ngài được mọi người yêu mến, từ hoàng gia đến thường dân.

Khi nhà vua lâm chung, ngài đã chỉ thị cho các cận thần chọn người kế vị trong số các con trai của mình, trao ngai vàng cho bất kỳ ai họ thấy phù hợp nhất. Sau khi nhà vua băng hà, các cận thần nhất trí rằng Hoàng tử Gāmani, người đã giành được sự tin tưởng và yêu mến của tất cả mọi người, là người cai trị hợp pháp. Họ đã phong ngài làm vua.

Trong khi đó, chín mươi chín anh em còn lại nghe tin cha họ qua đời và Gāmani lên ngôi. "Ngai vàng thuộc về người anh cả", họ tuyên bố. Họ hợp sức và gửi thư cho Gāmani, yêu cầu ngài thoái vị hoặc phải chiến đấu. Họ bao vây thành phố, sẵn sàng cho trận chiến.

Gāmani, một lần nữa nghe theo lời khuyên của Bồ Tát, từ chối chiến đấu. Ngài chia kho báu hoàng gia thành một trăm phần và gửi chín mươi chín phần cho các anh em với lời nhắn: "Ta sẽ không đánh nhau với các ngươi. Xin hãy nhận phần tài sản này của cha chúng ta."

Cảm kích trước lòng hào phóng và sự điềm tĩnh của chàng, người anh cả, Hoàng tử Uposatha, nói: "Người em trai này của chúng ta, dù là kẻ thù, nhưng đã từ chối chiến đấu và chia phần cho chúng ta. Chúng ta không thể cùng làm vua. Hãy trở về nhà và để chàng cai trị trong hòa bình."

Chín mươi chín vị hoàng tử, lòng đã mềm lại, tiến vào kinh thành một cách thanh thản và đảnh lễ người em út, người đang ngồi dưới tán hoàng bào trắng toát trong sự huy hoàng rực rỡ. Chứng kiến vẻ uy nghi tráng lệ của Gāmani, Uposatha nhận ra rằng cha họ luôn biết Gāmani được định sẵn sẽ làm vua.

Suy ngẫm về chiến thắng của mình, Gāmani nghĩ: "Ta nợ tất cả những điều này là nhờ sự chỉ dạy của sư phụ." Tràn đầy niềm vui, chàng chia sẻ chân lý này với các anh em: "Bằng cách tiến bước vững vàng, người mong muốn thành quả sẽ thành công. Ta đã đạt được quả vị của đời sống tâm linh; hãy biết điều này, Gāmaṇi."

Sau khi trị vì vương quốc một cách chánh trực, ngài đã ra đi thanh thản.

Đức Phật kết thúc câu chuyện bằng cách giải thích rằng vị sư đó chính là vua Gāmaṇi và Bồ tát đã là một bậc hiền trí trong kiếp trước.

Sau khi bài giảng kết thúc, Đức Phật thuyết giảng Chân lý, và cuối cùng, vị Tỷ-kheo yếu đuối đã chứng đắc quả A-la-hán.

.... o ....

J8. Gamani Jātaka -- Diligence will pay off.

Summary: A monk strives in the forest but fails. The Buddha reproves him, recalling a past life in which he was the youngest of 100 royal sons who gained honor through effort.

.

This story was told by the Teacher at Jetavana about a monk who gave up persevering.

A long time ago, King Brahmadatta of Benares had one hundred sons. The youngest, Prince Gāmani, was placed under the tutelage of the Bodhisatta, a wise and learned courtier.

The king granted a province to each of his sons as they completed their education. However, when it was Gāmani’s turn, the Bodhisatta advised him to decline the offer. “My son,” he said, “tell your father that you wish to remain by his side as the youngest of all.” Gāmani followed this advice, and the king was delighted.

With the Bodhisatta's counsel, Gāmani made himself indispensable. He requested an old park to tend, using its fruits and flowers to befriend the city's most powerful people. He then asked for permission to manage the kingdom’s finances, ensuring that every person received what they were due. He oversaw all aspects of the kingdom, from lodging for foreign visitors to taxes for merchants. Gāmani’s kindness and integrity made him beloved by all, from the royal household to the common folk.

When the king lay on his deathbed, he instructed his courtiers to select his successor from among his sons, granting the throne to whomever they deemed most suitable. After the king's passing, the courtiers unanimously agreed that Prince Gāmani, who had earned the trust and affection of all, was the rightful ruler. They crowned him king.

Meanwhile, the other ninety-nine brothers heard of their father's death and Gāmani's ascension."The throne belongs to the eldest," they declared. They joined forces and sent a letter to Gāmani, demanding that he abdicate or fight. They surrounded the city, ready for battle.

Gāmani, following the Bodhisatta's advice once again, refused to fight. He divided the royal treasury into one hundred parts and sent ninety-nine of them to his brothers with a message: "I will not fight with you. Please accept this share of our father's wealth."

Impressed by his generosity and lack of aggression, the eldest brother, Prince Uposatha, said, “This brother of ours, though an enemy, has refused to fight and has given us our share. We cannot all be kings. Let us return home and let him rule in peace.”

The ninety-nine princes, their hearts softened, entered the city peacefully and paid homage to their youngest brother, who sat under the white royal canopy in all his glory. Witnessing Gāmani’s immense magnificence, Uposatha realized that their father had always known Gāmani was destined to be king.

Reflecting on his triumph, Gāmani thought, "I owe all of this to my teacher’s guidance." Filled with joy, he shared this truth with his brothers:

By proceeding steadily, the one who desires the fruit succeeds. I have attained the fruit of the spiritual life; know this, Gāmaṇi.

After ruling his kingdom with righteousness, he passed away peacefully.

The Buddha concluded his story by explaining that the monk was King Gāmani and that the Bodhisatta had been a wise man in his past life.

After his lesson ended, the Buddha preached the Truths, and by the conclusion, the faint-hearted Brother attained Arahatship.

.... o ....

  J9. Makhadeva Jātaka -- Rời thế gian để ẩn tu vì nhìn thấy một sợi tóc bạc.

Tóm tắt: Các vị sư bàn luận về cuộc Đại Xuất Gia của Đức Phật. Sau đó, Đức Phật kể lại một câu chuyện từ tiền kiếp, trong đó Ngài đã từ bỏ thế gian sau khi nhìn thấy một sợi tóc bạc.

.

Câu chuyện này được Đức Thế Tôn kể lại tại Jetavana về cuộc Đại Xuất Gia, đã được ghi lại trong Nidana-Katha.

Nhân dịp này, các Tỷ-kheo ngồi tán dương sự Xuất Gia của Đức Thế Tôn. Bước vào Chánh Điện và ngồi trên tòa Phật, Đức Thế Tôn hỏi các Tỷ-kheo: “Này các Tỷ-kheo, chủ đề của các ông khi ngồi đây trong hội nghị này là gì?”

“Thưa Ngài, không có gì khác, mà chỉ là tán dương sự xuất gia của Ngài.”

“Này các Tỷ-kheo,” Đức Thế Tôn đáp, “Không chỉ trong những ngày sau này, Như Lai đã xuất gia; trong những ngày xưa, Ngài cũng đã xuất gia như vậy.”

Các Tỷ-kheo thỉnh cầu Đức Thế Tôn giải thích điều này. Đức Thế Tôn đã tiết lộ sự thật mà luân hồi đã che giấu.

Ngày xưa, tại Mithila, thuộc vương quốc Videha, có một vị vua tên là Makhadeva, người chính trực và trị vì công bằng. Trong suốt tám mươi bốn ngàn năm, ngài đã sống cuộc đời của một hoàng tử, trị vì như một phó vương, và trị vì như một vị vua. Sau ngần ấy năm dài, một ngày nọ, ngài nói với người thợ cắt tóc: "Hãy báo cho ta, hỡi người thợ cắt tóc, khi nào ngươi thấy bất kỳ sợi tóc bạc nào trên đầu ta."

Một ngày nọ, nhiều năm sau, người thợ cắt tóc phát hiện ra một sợi tóc bạc duy nhất giữa những lọn tóc đen nhánh của nhà vua và báo cho ngài biết. "Hãy nhổ nó ra, hỡi người bạn của ta," nhà vua nói, "và đặt nó vào lòng bàn tay ta." Người thợ cắt tóc liền nhổ sợi tóc bằng chiếc kẹp vàng của mình và đặt vào tay nhà vua.

Lúc đó, nhà vua vẫn còn tám mươi bốn ngàn năm nữa để sống; vậy mà khi nhìn thấy một sợi tóc bạc duy nhất, ngài đã vô cùng xúc động. Cứ như thể ngài nhìn thấy Thần Chết đang đứng trên đầu mình, hay như thể ngài đang bị mắc kẹt trong một túp lều lá rực lửa.

"Makhadeva ngu ngốc!" ngài kêu lên. "Tóc bạc đã đến với ngươi trước khi ngươi thoát khỏi những điều đồi trụy." Nghĩ đến mái tóc bạc, lòng ngài nóng bừng; mồ hôi tuôn ra như tắm, quần áo ngột ngạt, khó chịu. Ngài quyết tâm: "Ngay hôm nay, ta sẽ từ bỏ thế gian và bước vào đời sống của một người anh em."

Ngài ban cho người thợ cạo một ngôi làng với giá một trăm ngàn đồng tiền vàng. Rồi ngài gọi con trai cả đến và nói: "Con trai ơi, tóc bạc đã đến với ta, và ta đã già rồi. Ta đã thỏa mãn những thú vui trần tục và giờ đây khao khát được nếm trải những điều thiêng liêng. Thời điểm từ bỏ của ta đã đến. Hãy lên ngôi; còn ta, ta sẽ sống trong chốn an lạc gọi là Rừng Xoài Makhadeva và bước đi trên con đường khổ hạnh."

Khi ngài quyết tâm sống đời sống của một người anh em, các cận thần đến hỏi: "Thưa bệ hạ, lý do gì khiến ngài chọn đời sống của một người anh em?"

Cầm mái tóc bạc trên tay, nhà vua đọc bài kệ này cho các quan đại thần:

Này, những sợi tóc bạc mọc trên đầu ta

Chúng là sứ giả của Thần Chết, được phái đến để cướp bóc.

Cuộc đời ta—đã đến lúc ta từ bỏ những thứ trần tục.

Và trên con đường ẩn sĩ, để tìm kiếm sự bình an.

Sau những lời này, ngài từ bỏ vương quyền ngay ngày hôm đó và trở thành một ẩn sĩ. Trú ngụ trong Rừng Xoài của Makhadeva, ngài đã tu tập Bốn Tầng Thiền trong tám mươi bốn ngàn năm. Khi viên tịch với tuệ giác viên mãn và không gián đoạn, ngài được tái sinh vào Cõi Phạm Thiên. Từ đó, ngài lại lên ngôi vua ở Mithila, dưới tên Nimi. Sau khi đoàn tụ gia đình ly tán, ngài lại trở thành ẩn sĩ trong chính Rừng Xoài đó, lại chứng đắc Bốn Tầng Thiền, và sau đó lại được tái sinh vào Cõi Phạm Thiên.

Sau khi nhắc lại rằng Ngài cũng đã từng từ bỏ thế gian trong quá khứ, Đức Phật kết thúc bài giảng bằng cách thuyết giảng về Tứ Diệu Đế. Một số người đã đạt được Thánh quả thứ nhất, một số đạt được Thánh quả thứ hai, và một số khác đạt được Thánh quả thứ ba. Sau khi kể hai câu chuyện, Đức Phật chỉ ra mối liên hệ giữa họ và xác định Tiền Thân bằng cách nói: "Ngày xưa, Ananda là thợ cạo, Rahula là con trai, và chính Ta là vua Makhadeva."

.... o ....

J9. Makhadeva Jātaka -- He left the world to become a hermit after noticing a gray hair.

Summary: The monks discuss the Great Renunciation of the Buddha. The Buddha then recounts a story from a previous life, in which he renounced the world after seeing a single gray hair.

.

This story was told by the Master at Jetavana about the Great Renunciation, which has already been recounted in the Nidana-Katha.

On this occasion, the Brethren sat praising the Renunciation of the Lord of Wisdom. Entering the Hall of Truth and seating himself on the Buddha-seat, the Master addressed the Brethren: “What is your theme, Brethren, as you sit here in conclave?”

“It is nothing else, sir, but the praise of your renunciation.”

“Brethren,” rejoined the Master, “not only in these latter days has the Tathagata made a renunciation; in bygone days, too, he similarly renounced the world.”

The Brethren asked the Blessed One to explain this. The Blessed One revealed the truth that rebirth had hidden from them.

Once upon a time in Mithila, in the realm of Videha, there was a king named Makhadeva who was righteous and ruled justly. For successive periods totaling eighty-four thousand years, he had amused himself as a prince, ruled as a viceroy, and reigned as king. After all these long years, one day he said to his barber, “Tell me, friend barber, when you see any grey hairs on my head.”

One day, many years later, the barber discovered a single gray hair among the king’s raven locks and informed him. “Pull it out, my friend,” said the king, “and place it in my palm.” The barber accordingly plucked the hair with his golden tongs and laid it in the king’s hand.

At that time, the king still had eighty-four thousand years left to live; yet at the sight of a single grey hair, he was overcome with deep emotion. It was as if he saw the King of Death standing over him, or as if he were trapped inside a blazing hut of leaves.

“Foolish Makhadeva!” he cried. “Grey hairs have come upon you before you’ve rid yourself of depravities.” As he dwelled on the appearance of that grey hair, he burned inwardly; sweat poured from his body, and his garments felt oppressive and unbearable. “This very day,” he resolved, “I will renounce the world and enter the life of a Brother.”

He granted his barber a village yielding a hundred thousand coins. Then he summoned his eldest son and said, “My son, grey hairs have come upon me, and I have grown old. I have had my fill of worldly joys and now long to taste the divine ones. The time for my renunciation has come. Take the throne; as for me, I shall dwell in the pleasaunce called Makhadeva’s Mango Grove and walk the path of the ascetic.”

As he was determined to lead the life of a Brother, his ministers approached and asked, “Sire, what is the reason for adopting the life of a Brother?”

Taking the gray hair in his hand, the king repeated this stanza to his ministers:

Lo, these gray hairs that appear on my head

They are Death’s own messengers, sent to rob.

My life—’tis time I turned from worldly things.

And on the hermit's path, he sought saving peace.

After these words, he renounced his sovereignty on that very day and became a recluse. Dwelling in the Mango Grove of Makhadeva, he cultivated the Four Perfect States within himself for eighty-four thousand years. Upon dying with full and unbroken insight, he was reborn in the Realm of Brahma. From there, he became a king again in Mithila, under the name of Nimi. After reuniting his scattered family, he once more became a hermit in the same Mango Grove, attained the Four Perfect States again, and subsequently passed once more to the Realm of Brahma.

After reiterating that he had similarly renounced the world in bygone days, the Master concluded his lesson by preaching the Four Truths. Some entered the First Path, some the Second, and others the Third. Having told the two stories, the Master showed the connection between them and identified the Birth by saying, “In those days, Ananda was the barber, Rahula the son, and I myself was King Makhadeva.”

.

.... o ....

J10. Sukhavihari Jātaka -- Hạnh phúc cho người không canh gác ai, cũng không bị ai canh gác.

Tóm tắt: Một vị sư ca ngợi cuộc đời xuất gia của mình. Các vị sư khác cho rằng đây là một sự khoe khoang và dẫn sư đến trước Đức Phật. Đức Phật kể lại một kiếp trước, trong đó vị kia cũng tìm thấy niềm vui trong con đường ẩn tu.

.

Tại Vườn Xoài Anupiya, một vị sư tên Bhaddiya thường được nghe thấy thốt lên: "Ôi, hạnh phúc! Ôi, hạnh phúc!". Các vị sư khác nhận thấy điều này và thưa với Đức Phật rằng Bhaddiya đang thể hiện niềm hạnh phúc mà ông đã tìm thấy.

Đức Phật giải thích rằng khoảnh khắc hiện tại không phải là lần đầu tiên Bhaddiya trải nghiệm niềm hạnh phúc như vậy. Ngài kể lại một câu chuyện từ một kiếp trước khi Bhaddiya còn là một vị vua.

Trong một kiếp trước, Đức Phật sinh ra là một Bà-la-môn giàu có ở phương Bắc. Ngài từ bỏ thế gian và trở thành một ẩn sĩ, sống trên dãy Himalaya với một nhóm năm trăm vị tu sĩ khổ hạnh. Vào mùa mưa, nhóm người đã đến Benares và ở lại trong vườn thượng uyển với tư cách là khách của nhà vua. Khi mưa kết thúc, đã đến lúc phải rời đi.

Nhà vua, nhận thấy vị Bà-la-môn đã già, đã yêu cầu ông ở lại. "Hãy gửi các đệ tử của ông trở về dãy Himalaya, nhưng ông nên ở lại đây," nhà vua thúc giục.

Vị Bà-la-môn đồng ý và chỉ thị cho vị đệ tử lớn tuổi nhất của mình dẫn những người khác trở về. Người đệ tử này cũng từng là một vị vua trong kiếp trước, đã từ bỏ vương quốc để xuất gia. Ngài là bậc thầy về thiền định và tuệ giác sâu sắc.

Sau một thời gian ở dãy Himalaya, vị vua cũ khao khát được gặp lại thầy mình. Ngài trở về Benares, đảnh lễ và nằm xuống tấm thảm bên cạnh. Ngay lúc đó, vua Benares đến thăm vị Bà-la-môn. Vị đệ tử, nhận ra sự hiện diện của nhà vua, không đứng dậy. Ông chỉ nằm đó, kêu lên: "Ôi, hạnh phúc! Ôi, hạnh phúc!"

Nhà vua bực mình. Ngài quay sang vị Bà-la-môn và nhận xét: "Chắc hẳn vị khổ hạnh này đã ăn hết phần của mình nên mới được hạnh phúc như vậy."

Vị Bà-la-môn đã biết sự thật. “Tâu bệ hạ,” ngài giải thích, “vị ẩn sĩ này đã từng là một vị vua như bệ hạ. Nỗi bất hạnh của ngài không phải do thức ăn. Thay vào đó, ngài đang hồi tưởng lại kiếp trước, khi ngài bị lính canh bao vây và không bao giờ thực sự an toàn. Ngài đang so sánh nỗi sợ hãi và lo lắng đó với sự tự do và hạnh phúc sâu sắc của cuộc đời một ẩn sĩ. Niềm hạnh phúc mà ngài cảm thấy đến từ việc không còn sợ hãi và từ sự thấu hiểu sâu sắc của ngài.”

Để giảng giải chân lý này cho nhà vua, vị Bà-la-môn đã đọc một bài kệ:

Tâu bệ hạ, người không canh giữ cũng không bị canh giữ

Sống hạnh phúc, thoát khỏi sự nô lệ của dục vọng.

Nhà vua hiểu ra, đảnh lễ vị Bà-la-môn và trở về cung điện. Vị ẩn sĩ trở về dãy Himalaya để tiếp tục hành trình.

Đức Phật kết thúc câu chuyện bằng cách tiết lộ rằng vị vua vui vẻ trước kia chính là Bhaddiya trong một kiếp trước, và bậc thầy chính là Đức Phật. Câu chuyện giải thích rằng hạnh phúc của Bhaddiya không bắt nguồn từ một sự kiện gần đây mà là một hạnh phúc sâu sắc bắt nguồn từ hành trình tâm linh của ngài – một cảm giác mà ngài đã trải nghiệm và ghi nhớ qua nhiều kiếp sống.

.... o ....

J10. Sukhavihari Jātaka -- Happy is the man who neither guards nor is guarded by others.

Summary: A monk praises his life as a renunciant. Other monks perceive this as boasting and bring him before the Buddha, who recounts a past life in which he also found joy in the ascetic path.

.

At the Anupiya Mango Grove, a monk named Bhaddiya was often heard exclaiming, "Oh, happiness! Oh, happiness!" The other monks noticed this and told the Buddha that Bhaddiya was expressing the bliss he had found.

The Buddha explained that the present moment was not the first time Bhaddiya had experienced such happiness. He recounted a story from a past life when Bhaddiya was a king.

In a past life, the Buddha was born as a wealthy Brahmin in the north. He renounced the world and became a hermit, living in the Himalayas with a group of five hundred ascetics. During the rainy season, the group traveled to Benares and stayed in the royal park as guests of the king. When the rains ended, it was time to leave.

The king, noticing that the Brahmin was old, asked him to stay. "Send your pupils back to the Himalayas, but you should remain here," the king urged.

The Brahmin agreed and instructed his eldest disciple to lead the others back. This disciple had also been a king in a past life, having relinquished his kingdom to become a monk. He was a master of meditation and profound insight.

After spending some time in the Himalayas, the former king felt a longing to see his master. He traveled back to Benares, paid his respects, and lay down on a mat beside him. Just then, the king of Benares came to visit the Brahmin. The disciple, aware of the king’s presence, did not rise. He simply lay there, exclaiming, “Oh, happiness! Oh, happiness!”

The king was annoyed. He turned to the Brahmin and remarked, "This ascetic must have consumed his share to be so happy."

The Brahmin knew the truth. “Sire,” he explained, “this ascetic was once a king like you. His unhappiness is not due to food. Rather, he is reflecting on his past life, when he was surrounded by guards and never truly safe. He is comparing that fear and anxiety to the profound freedom and bliss of an ascetic’s life. The happiness he feels comes from a lack of fear and from his profound insight.”

To teach the king this truth, the Brahmin recited a verse:

The man who neither guards nor is guarded, sire,

Lives happily, freed from slavery to lust.

The king understood, bowed to the Brahmin, and returned to his palace. The ascetic went back to the Himalayas to continue his practice.

The Buddha concluded the story by revealing that the joyful former king was Bhaddiya in a past life, and the master was the Buddha himself. The story explained that Bhaddiya's happiness did not stem from a recent event but was a profound bliss rooted in his spiritual journey—a feeling he had experienced and remembered across lifetimes.

.... o ....

Bình luận