Biết ơn: cửa vào sơ thiền, giải thoát
Người dạy mình một chữ cũng là Thầy, nửa chữ cũng là Thầy. Nhất tự vi sư, bán tự vi sư. Ông bà mình thường nhắc con như thế khi đưa con vào sơ học. Người dân Việt đã được dạy lòng biết ơn từ những ngày thơ ấu như thế. Chúng ta đang bước vào mùa Lễ Tạ Ơn tại Hoa Kỳ. Bầu không khí lễ hội đôi khi tưng bừng quá, có thể làm chúng ta quên đi sự sâu lắng cần thiết để nghĩ tới những ơn sâu nghĩa nặng mà chúng ta đã thọ nhận trong kiếp này. Đối với Phật giáo, lòng biết ơn và đền ơn là một phẩm chất cao quý cần có. Bài Kinh về Lòng Biết Ơn là Kinh đầu tiên Đức Phật dạy sau khi thành Phật. Đó là một bài Kinh vô ngôn. Thêm nữa, trong một bài Kinh có ký số là SN 5.264, Đức Phật dạy rằng những người không sống với lòng biết ơn sẽ không thể vào sơ thiền. Do vậy, biết ơn là một phẩm tính chúng ta cần phải tu dưỡng không rời.
Kho truyện cổ tích Việt Nam có nhiều truyện đề cao lòng biết ơn. Trong đó có truyện Trạng Nguyên Tô Tịch, còn gọi là Ông Trạng Nồi. Thuở xưa, có một chàng trai nghèo tên là Tô Tịch, hàng ngày phải kiếm củi để lấy tiền ăn học. Với sự thông minh và lòng ham học, chàng ngày đêm miệt mài ôn thi. Vì quá nghèo và không có thời gian kiếm gạo, chàng luôn đợi nhà hàng xóm ăn cơm xong rồi chạy sang mượn nồi, mục đích là để ăn vét cơm cháy còn sót lại, nhờ đó mà có đủ sức học.
Năm ấy, chàng tham dự khoa thi và đỗ đầu bảng, trở thành Trạng Nguyên. Vua ban thưởng và cho phép trạng tự chọn vật quý ban thưởng. Trước sự ngạc nhiên của tất cả mọi người, tân trạng nguyên chỉ xin nhà vua ban cho một chiếc nồi nhỏ bằng vàng. Khi về làng thăm quê, Trạng Nguyên Tô Tịch cầm chiếc nồi vàng đến thẳng nhà người hàng xóm đã cho mình mượn nồi năm xưa, tặng chiếc nồi quý giá để tạ ơn vì sự giúp đỡ vô tình đó. Trạng tiết lộ rằng, nhờ những miếng cơm cháy vét từ nồi của họ mà chàng mới có sức học và đỗ đạt. Dân làng và chủ nhà vô cùng cảm phục lòng hiếu học, sự kiên trì và đặc biệt là lòng biết ơn sâu sắc của vị trạng nguyên trẻ tuổi. Từ đó, Tô Tịch được dân gian gọi thân thiết là Ông Trạng Nồi.
Nơi Miền Tây VN, có một hệ phái Phật Giáo lấy tên là Phật Giáo Tứ Ân. Cách tu dưỡng là đề cao Ơn cha mẹ, Ơn thầy bạn, Ơn nhà nước, Ơn chúng sanh. Đó là Tứ Ân, tức là bốn ơn lớn, mà Đức Phật đã dạy chớ quên. Trong sách Phật Học Thường Thức, tác giả Tâm Minh Lê Đình Thám viết rằng cha mẹ sinh ra và nuôi dưỡng chúng ta, Thầy bạn giúp cho chúng ta “hiểu biết điều hay, lẽ phải, bỏ dữ, làm lành, thì mới là ân nhân. Báo ơn thầy bạn, người đạo Phật chỉ yếu là báo ơn Tam bảo, nghĩa là báo ơn Phật, bằng cách cứu độ chúng sanh, phục vụ chúng sanh, báo ơn Phật bằng cách lưu thông và tuyên dương Phật pháp, báo ơn Tăng bằng cách phát triển và củng cố đoàn thể đệ tử Phật, trên tinh thần lục hòa, ngũ đức, bằng cách giúp đỡ những người tu học và tuyên dương Chánh pháp.” (1)
Nghĩa là, hoằng pháp là một pháp đền ơn. Ngài Tâm Minh viết về chúng ta phải báo ơn nhà nước để làm cho nhân dân an cư lạc nghiệp và bảo vệ đất nước. Trong khi đó, ơn chúng sanh đối với chúng ta là vô cùng tận, theo ngài Tâm Minh: “Nếu kể từ vô lượng, vô số kiếp, thì tất cả chúng sanh đều có ơn và cần phải báo đáp tất cả chúng sanh, nếu kể riêng về đời sống hiện tại, thì báo ơn chúng sanh là báo ơn nhân loại cần lao nói chung và báo ơn đồng bào lao động nói riêng.” (1)
Đã học theo Phật thì phải bắt chước theo Phật. Trong đó, một phẩm tính cần thiết là lòng biết ơn. Đặc biệt, biết ơn là nội dung bài kinh đầu tiên Đức Phật dạy sau khi Ngài thành Phật. Trong sách Mahabuddhavamsa (2), do nhà sư Miến Điện Mingun Sayadaw biên soạn dựa theo các văn bản Pali, Đức Phật trong tuần lễ đầu tiên đã ngồi trên Kim cương bảo tọa để nhập định để hưởng niềm hạnh phúc giải thoát. Tuần lễ thứ nhì kế tiếp gọi là Tuần Lễ Nhìn Ngắm Không Chớp Mắt: trong bảy ngày, Đức Phật nhìn chăm chú vào cây Đại Bồ Đề và tòa Kim cương bảo tọa mà không chớp mắt, được gọi là tuần lễ Animisa sattāha.
Phât sử kể rằng, sau khi thành Phật và ngồi kiết già hưởng hạnh phúc A-la-hán, Đức Phật ngự trên tòa Aparājita trong bảy ngày. Trong dòng tâm thức của một số chư thiên và Phạm Thiên bình thường (ngoài những vị Ariya và Phạm Thiên đã biết được các đặc tính của Đức Phật, một phần vì họ đã chứng ngộ Đạo Quả vào thời các vị Phật trước), có những nghi ngờ nảy sinh khi họ tự hỏi: “Cho đến bây giờ Đức Phật vẫn chưa rời khỏi tòa. Ngoài những đặc tính Ngài đã có, còn có những đặc tính nào khác giúp Ngài đạt được Phật quả không?”
Vào ngày thứ tám (ngày trăng khuyết thứ tám), biết được sự nghi ngờ của chư thiên và Phạm thiên, Đức Phật bay lên hư không và thực hiện Thần thông song hành nước và lửa để diệt trừ nghi ngờ của họ. Sau khi thực hiện Thần thông song hành nước và lửa để diệt trừ nghi ngờ của chư thiên và Phạm thiên, Đức Phật từ trời giáng xuống và đứng thẳng như một cây cột vàng tại vị trí phía đông bắc của Tòa Aparājita, suy ngẫm: "Ta quả thực đã đạt được Toàn giác trên Tòa Aparājita này." Ngài trải qua bảy ngày không nhắm mắt, chỉ nhìn lên ngai vàng và cây bồ đề, nơi Ngài đã chứng đắc Phật quả nhờ những Ba La Mật mà Ngài đã viên mãn trong suốt bốn A-tăng-kỳ và một trăm ngàn đại kiếp.
Việc ngài đứng liên tục 7 ngày 7 đêm nhìn vào cây Bồ Đề để tri ân cây đã che chở gió mưa cho ngài là một bài kinh sống động, nhưng vô ngôn, dạy cho chúng ta biết trân trọng tất cả các duyên trong cõi này đã hộ trì, gìn giữ thân tâm chúng ta. Trong đời thường, chúng ta đôi khi cũng biết ơn cây cỏ núi rừng chung quanh mình, nhưng hẳn là chưa có ai như Đức Phật với cách rất mực trân trọng với cội cây đã che chở cho ngài như thế. Đối với một cội cây Bồ Đề đã biết ơn như thế, hiển nhiên là đối với chung sanh, tức là cha mẹ thân quyến nhiều đời, tấm lòng của Đức Phật hiển nhiên là rất mực sâu nặng, bất khả đo lường.
Tại sao chúng ta cần có lòng biết ơn? Bởi vì trong khi tu học, nếu không có lòng biết ơn, chúng ta có thể rơi vào tà thiền, tà định. Nhìn lại lịch sử Phật giáo, chúng ta từng thấy nhiều vị thầy chỉ mới tu được chứng đắc chút xíu, liền tự cho là mình vĩ đại cỡ như Phật, như Tổ, rồi lập tông, lập phái, rồi nặng lời phỉ báng, chê gièm những người đi trước, hoàn toàn không chút lòng biết ơn nào. Không có lòng biết ơn, dù là biết ơn một bữa cơm chay trong chùa, là sẽ dẫn tới những kiêu mạn về sau.
Chúng ta cần cảnh giác với những người có năng lực phi phàm, nhưng là tà thiền, tà định. Kinh MN 108, bản dịch của Thầy Minh Châu, ghi rằng, trích: “—Này Bà-la-môn, Thế Tôn ấy không tán thán tất cả Thiền định, không không tán thán tất cả Thiền định. Và này Bà-la-môn, loại Thiền định nào Thế Tôn ấy không tán thán? Ở đây, này Bà-la-môn, một số vị sống với tâm thấm nhuần dục tham, bị dục tham chi phối, và không như thật biết sự giải thoát khỏi dục tham đã được khởi lên. Vị ấy lấy dục tham làm đối tượng tối hậu, Thiền tu, Thiền tư, Thiền định, Thiền nhập. Vị ấy sống với tâm thấm nhuần sân hận, bị sân hận chi phối, và không như thật biết sự giải thoát khỏi sân hận đã được khởi lên. Vị ấy lấy sân hận làm đối tượng tối hậu, Thiền tu, Thiền tư, Thiền định, Thiền nhập. Vị ấy sống với tâm thấm nhuần hôn trầm thụy miên, bị hôn trầm thụy miên chi phối, và không như thật biết sự giải thoát khỏi hôn trầm thụy miên đã được khởi lên. Vị ấy lấy hôn trầm thụy miên làm đối tượng tối hậu, Thiền tu, Thiền tư, Thiền định, Thiền nhập. Vị ấy sống với tâm thấm nhuần trạo hối, bị trạo hối chi phối và không như thật biết sự giải thoát khỏi trạo hối đã được khởi lên. Vị ấy lấy trạo hối làm đối tượng tối hậu, Thiền tu, Thiền tư, Thiền định, Thiền nhập. Vị ấy sống với tâm thấm nhuần nghi hoặc, bị nghi hoặc chi phối và không như thật biết sự giải thoát khỏi nghi hoặc đã được khởi lên. Vị ấy lấy nghi hoặc làm đối tượng tối hậu, Thiền tu, Thiền tư, Thiền định, Thiền nhập. Này Bà-la-môn, Thế Tôn ấy không tán thán loại Thiền định như vậy.” (3)
Trong khi đó, Đức Phật dạy một điểm cực kỳ quan trọng là: Những người sống vô ơn sẽ tự làm tan vỡ, ngay cả khi họ đã sống thiện được ở thân, khẩu, và ý. Bởi vì biết ơn và vô ơn là phương diện thứ tư của thiện và bất thiện, bên cạnh ba phương diện của thân, khẩu và ý. Trong Kinh AN 4.223, nơi đây, chúng ta dịch theo bản tiếng Anh của ngài Sujato:
“Khi một kẻ ngu si, bất tài, giả dối có bốn đặc điểm, họ sẽ tự làm họ tan vỡ và tổn thương. Họ đáng bị người sáng suốt chỉ trích, và tâm họ đầy những gian ác. Bốn điều đó là gì? Hành vi bất thiện về thân, khẩu, ý, và sự vô ơn, không biết ơn. Một người sáng suốt… sẽ tràn đầy công đức. … Họ có hành vi thiện lành về thân, khẩu, ý, và lòng biết ơn.” (4)
Trong khi đó, trong Kinh AN 5.264, Đức Phật nói rõ rằng người không có lòng biết ơn, sẽ không vào được sơ thiền. Nơi đây, chúng ta dịch kinh này theo 2 bản tiếng Anh của Sujato và Thanissaro, không dị biệt nhau:
“Này các Tỷ-kheo, nếu không từ bỏ năm pháp này, các ông không thể nhập và trụ trong sơ thiền. Năm pháp nào? Đó là keo kiệt về nhà ở, gia đình, vật chất, lời khen, và sự thiếu lòng biết ơn. Nếu không từ bỏ năm pháp này, các ông không thể nhập và trụ trong sơ thiền. Nhưng sau khi từ bỏ năm pháp này, các ông có thể nhập và trụ trong sơ thiền. Năm pháp nào? Đó là keo kiệt về nhà ở, gia đình, vật chất, lời khen, và sự thiếu lòng biết ơn. Sau khi từ bỏ năm pháp này, các ông có thể nhập và trụ trong sơ thiền.” (5)
Tại sao cần vào sơ thiền? Bởi vì đó là cửa giải thoát căn bản. Bởi vì từ sơ thiền, người tu có thể quán vô thường để giải thoát. Trong Kinh AN 9.36, bản dịch của Thầy Minh Châu, có lời Đức Phật dạy rằng có trường hợp chỉ cần an trú sơ thiền là đủ để giải thoát. Kinh này nói rằng khi vào sơ thiền, quán các pháp ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) là vô thường, khổ, rỗng không, vô ngã, đoạn diệt tham ái, vào Niết Bàn. Tức là, tu thiền chỉ, rồi tới thiền quán. Tức là, có định trước, rồi tới huệ. Trường hợp chưa được, thì cũng được hóa sanh (hiểu là vào cõi tịnh độ của thánh quả Bất Lai) và nơi cõi trời này sẽ chứng Niết Bàn. Kinh AN 9.36 trích như sau:
“Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng: “Y chỉ vào sơ Thiền, các lậu hoặc được đoạn tận”, như vậy được nói đến. Do duyên gì, được nói đến như vậy? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ly dục… chứng và trú sơ Thiền. Vị ấy, ở đây đối với cái gì thuộc về sắc, thuộc về thọ, thuộc về tưởng, thuộc về hành, thuộc về thức, các pháp ấy, vị ấy tùy quán là vô thường, là khổ, là bệnh, là mụt nhọt, là mũi tên, là va chạm, là tật bệnh, là khách lạ, là biến hoại, là trống không, là vô ngã. Vị ấy tránh né tâm mình khỏi những pháp ấy, sau khi tránh né tâm mình khỏi những pháp ấy, vị ấy hướng dẫn đến giới bất tử: “Ðây là tịch tịnh, đây là thù thắng, tức là sự chỉ tức tất cả hành, sự từ bỏ tất cả sanh y, sự diệt tận khát ái, ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn”. Vị ấy trú ở đây, đạt đến sự diệt tận các lậu hoặc, nếu không diệt tận các lậu hoặc, với pháp ái ấy, với pháp hỷ ấy, do đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, là vị hóa sanh, tại đấy chứng được Niết-bàn, không còn trở lui thế giới này nữa.”(6)
Như thế, lòng biết ơn là một phẩm tính cần có. Không chỉ là bày tỏ lòng biết ơn cha mẹ, Thầy bạn, tổ quốc, chúng sanh, mà là hãy biết ơn tất cả những gì đã hỗ trợ, cưu mang, che chở chúng ta. Hãy biết ơn ngay cả cội cây che nắng, ngay cả hạt mưa nuôi dưỡng lúa mà... và tất cả những gì chung quanh chúng ta. Đó là rừng ngăn lũ, đó là núi chận bão, đó là cây rừng chống sạt lở, đó là những chiếc ghe chở người cứu hộ tới giúp đồng bào mình, và đó là tất cả những gì làm nhân duyên cho chúng ta sống trong cõi này, và học theo Phật pháp.
Hãy nhớ, Đức Phật đứng yên bảy ngày nhìn cây Bồ Đề là bài kinh đầu tiên, và là bài kinh vô ngôn dạy chúng ta phải biết ơn. Thêm nữa, Đức Phật nhấn mạnh rằng, lòng biết ơn là một cửa vào sơ thiền, nơi căn bản nhất để bước vào đường giải thoát. Từng chữ một, nơi đây người viết xin viết lên lòng biết ơn vô lượng tới tất cả những gì trong cõi này mình đã thấy, nghe, ngửi, nếm, chạm xúc, tư lường. Từng chữ một, người viết xin viết lên lòng biết ơn tới Đức Phật và Chánh pháp, tới tất cả những gì mình đã đọc, đã học từ vô lượng vị thầy Bắc Tông, Nam Tông, Phật giáo Tây Tạng trong vô lượng kiếp. Om mani padme hum.
GHI CHÚ:
(1) Tâm Minh. Phật Học Thường Thức: https://thuvienhoasen.org/p22a7797/tu-an
(2) Mingun Sayadaw. Mahabuddhavamsa: https://www.wisdomlib.org/buddhism/book/the-great-chronicle-of-buddhas/d/doc364464.html
(3) Kinh MN 108: https://suttacentral.net/mn108/vi/minh_chau
(4) Kinh AN 4.223. Bản Sujato: https://suttacentral.net/an4.223/en/sujato
(5) Kinh AN 5.264. Sujato: https://suttacentral.net/an5.264/en/sujato
(6) Kinh AN 9.36. Bản Minh Châu: https://suttacentral.net/an9.36/vi/minh_chau