Bản Sanh: truyện 471 tới 480 / Jataka Tales: Stories 471–480
Nguyên bản: Pali
Anh dịch: W.H.D. Rouse và Ānandajoti Bhikkhu
Việt dịch và rút ngắn: Nguyên Giác
J471. Mendaka Jātaka -- Chuyện một con chó và một con dê dựa vào nhau để sống.
Tóm tắt: Đức Phật kể một câu chuyện về một con chó bị bắt quả tang ăn trộm thịt và một con dê bị bắt quả tang ăn trộm cỏ. Hai con vật đã lập một thỏa thuận hợp tác với nhau, vì biết rằng sẽ không ai nghi ngờ một con dê ăn trộm thịt hay một con chó ăn trộm cỏ. Chỉ có vị hiền nhân Mahosadha mới có thể làm sáng tỏ bí ẩn về việc chúng đã trở thành bạn bè như thế nào.
.
Vào một ngày nọ, sau khi ăn sáng xong, nhà vua đi dạo dọc theo con đường dài trong cung điện. Khi nhìn qua một ô cửa, ông nhận thấy một cảnh tượng bất thường: một con dê và một con chó sống chung với nhau trong tình bạn thân thiết.
Con dê từ lâu đã quen với việc ăn cỏ được ném cho voi gần chuồng trước khi voi kịp ăn. Vì thói quen này, những người trông voi thường xuyên đuổi đánh con dê. Ngày hôm đó, khi con dê chạy trốn khỏi chuồng, một người đàn ông đuổi theo và đánh mạnh vào lưng nó bằng một cây gậy. Bị thương và đau đớn, con dê đi khập khiễng với lưng cong và cuối cùng nằm xuống trên một chiếc ghế dài bên bức tường lớn của cung điện.
Con chó đã sống cả đời bằng cách ăn xương, da và thức ăn thừa từ nhà bếp hoàng gia. Cũng trong ngày hôm đó, sau khi người đầu bếp hoàn thành việc chuẩn bị thức ăn cho nhà vua và đặt các món ăn sang một bên, mùi thịt và cá quá hấp dẫn khiến con chó không thể cưỡng lại. Nó lẻn vào nhà bếp, đẩy những tấm che sang một bên và bắt đầu ăn thức ăn. Nghe thấy tiếng động của bát đĩa, người đầu bếp vội vàng chạy vào, đuổi con chó đi và đánh nó bằng gậy và đá. Khi con chó chạy trốn kêu la, người đầu bếp đuổi theo và đánh mạnh vào lưng nó. Bị thương, một chân co lên và lưng cong vì đau, con chó tìm đường đến cùng một nơi bên bức tường cung điện nơi con dê đang nghỉ ngơi.
Cả hai con vật, giờ đây không thể an toàn trở lại nguồn thức ăn cũ, đã tìm thấy nhau ở cùng một nơi trú ẩn. Từ sự bất hạnh chung này, một kế hoạch đã ra đời giúp chúng cùng nhau sinh tồn. Con chó có thể an toàn vào chuồng voi, vì những người trông voi sẽ nghĩ rằng nó không quan tâm đến cỏ, và có thể mang cỏ về cho con dê. Ngược lại, con dê có thể an toàn vào nhà bếp, vì người đầu bếp sẽ nghĩ rằng nó không quan tâm đến thịt, và có thể mang thịt về cho con chó. Nhờ sự trao đổi thức ăn này, hai con vật đã sống hòa thuận bên nhau cạnh bức tường cung điện.
Khi nhà vua quan sát tình bạn kỳ lạ của chúng, ông rất ngạc nhiên. Trước đây ông chưa từng thấy hai kẻ thù tự nhiên lại sống hòa thuận với nhau như vậy. Ông quyết định biến cảnh tượng này thành một bài kiểm tra cho các vị hiền triết của mình. Những người không hiểu được câu đố sẽ bị trục xuất khỏi vương quốc, trong khi bất cứ ai giải được nó sẽ được tuyên bố là một hiền nhân vô song và được tôn vinh xứng đáng. Vì hôm đó không còn thời gian, nhà vua quyết định sẽ đưa ra câu hỏi cho họ vào sáng hôm sau.
Khi các hiền nhân tập hợp vào ngày hôm sau, nhà vua đưa ra câu đố, cảnh báo rằng nếu không giải được trước buổi trưa thì sẽ bị trục xuất. Senaka ngồi ở vị trí đầu tiên, trong khi Bồ Tát, người vĩ đại nhất trong số họ, ngồi ở vị trí cuối cùng. Bồ Tát suy luận rằng nhà vua chắc hẳn đã nhìn thấy điều gì đó bằng chính mắt mình, và lời giải nằm ở việc khám phá ra điều đó. Ngài dự đoán rằng Senaka sẽ tìm cách trì hoãn câu trả lời thêm một ngày. Các hiền nhân khác, không thể tìm ra bất kỳ lời giải nào, đều bối rối. Senaka, nhận thấy mong muốn có thêm thời gian của Bồ Tát, đã thuyết phục được nhà vua cho họ thêm một ngày.
Bị đe dọa nhưng được phép suy nghĩ thêm, các vị hiền triết rút lui. Senaka khuyên những người khác nên ăn uống đầy đủ và suy nghĩ cẩn thận, vì biết rằng nguy hiểm lớn đang chờ đợi họ nếu họ thất bại. Sau đó, mỗi người trở về nhà mình.
Bồ Tát tìm đến Hoàng hậu Udumbarā và biết được rằng nhà vua đã dành hai ngày trước đó đi dạo dọc theo con đường dài và nhìn ra ngoài cửa sổ. Từ đó, Bồ Tát kết luận rằng nhà vua chắc hẳn đã chứng kiến điều gì đó bất thường ở đó. Ngài đến nơi đó, quan sát con dê và con chó, và ngay lập tức hiểu ra câu đố. Sau khi giải được câu đố, ngài trở về nhà.
Các vị hiền triết khác không tìm ra được gì và sợ bị lưu đày, nên tìm đến Senaka. Nhận ra rằng câu hỏi nằm ngoài khả năng của họ, họ đồng ý rằng Bồ Tát chắc hẳn đã giải được câu đố rồi. Họ cùng nhau đến nhà ngài và kính cẩn cầu xin sự giúp đỡ. Mặc dù Bồ Tát hiểu rằng ngài có thể giành được vinh dự duy nhất nếu giữ im lặng, nhưng ngài đã chọn cách cứu họ khỏi sự hủy hoại. Không tiết lộ chính xác những gì nhà vua đã thấy, ngài đã sáng tác bốn câu thơ giải thích bằng tiếng Pāli, dạy mỗi người một câu và cho họ ra về.
Ngày hôm sau, các vị hiền triết trở lại triều đình và được hỏi từng người một. Mỗi người đều đọc câu thơ mà mình đã được dạy. Mặc dù không ai trong số họ hiểu ý nghĩa của nó, nhà vua tin rằng mỗi người đều tự mình giải được câu đố, vì những câu thơ phù hợp với những gì chính ông đã chứng kiến.
Cuối cùng, nhà vua hỏi Bồ Tát. Bồ Tát sau đó giải thích rõ ràng rằng tình bạn giữa con dê và con chó nảy sinh từ sự trao đổi thức ăn lẫn nhau, mỗi con mang đến cho con kia những thứ mà nó không thể tự mình kiếm được một cách an toàn. Ngài mô tả cách nhà vua đã tận mắt chứng kiến sự trao đổi này từ sân thượng cung điện.
Vui mừng, nhà vua tin rằng cả năm vị hiền triết đều đã thấu hiểu vấn đề tinh tế này bằng trí tuệ của riêng mình. Ca ngợi sự sáng suốt và tài hùng biện của họ, nhà vua ban thưởng cho mỗi người một cỗ xe ngựa, một con la cái và một ngôi làng giàu có. Bằng cách đó, tất cả các vị hiền triết đều được vinh danh, và lòng từ bi của Bồ Tát đã cứu giúp các bạn đồng hành của ngài trong khi trí tuệ chiến thắng.
.
.... o ....
J471. Mendaka Jātaka -- The story of a dog and a goat who depended on each other to survive.
Summary: The Buddha shares a story about a dog caught stealing meat and a goat caught stealing grass. They formed a pact to work together, knowing that no one would suspect a goat of stealing meat or a dog of taking grass. It was only the wise man Mahosadha who could unravel the mystery of how they became friends.
.
On one particular day the king, after finishing his breakfast, was pacing up and down along the long walk of the palace. While looking out through a doorway, he noticed an unusual sight: a goat and a dog living together in apparent friendship.
The goat had long been accustomed to eating the grass that was thrown to the elephants near their stable before the elephants themselves could touch it. Because of this habit, the elephant-keepers regularly chased and beat the goat. On that day, as the goat fled bleating from the stable, one of the men ran after it and struck it sharply on the back with a stick. Injured and in pain, the goat walked away with its back hunched and finally lay down on a bench by the great wall of the palace.
The dog had spent its life feeding on bones, skins, and scraps discarded from the royal kitchen. That same day, after the cook had completed the preparation of the king’s food and set the dishes aside, the smell of meat and fish became too much for the dog to resist. It entered the kitchen, pushed aside the coverings, and began eating the food. Hearing the noise of the dishes, the cook rushed in, drove the dog away, and beat it with sticks and stones. As the dog fled yelping, the cook ran after it and struck it hard on the back. Injured, holding up one leg and arching its back in pain, the dog made its way to the same place by the palace wall where the goat was resting.
Both animals, now unable to return safely to their former sources of food, found themselves sharing the same place of refuge. From this shared misfortune arose a plan that allowed them to survive together. The dog could safely enter the elephant stable, since the keepers would assume it had no interest in grass, and could carry grass back for the goat. The goat, in turn, could safely enter the kitchen, since the cook would assume it had no interest in meat, and could carry meat back for the dog. By this exchange of food, the two animals managed to live together in peace beside the palace wall.
When the king observed their unlikely friendship, he was struck by its strangeness. Never before had he seen two natural enemies living together in harmony. He resolved to turn this sight into a test for his wise men. Those who failed to understand it would be banished from the realm, while anyone who solved it would be declared a sage beyond compare and honored accordingly. As there was no time that day, he decided to present the question to them on the following morning.
When the wise men assembled the next day, the king posed the riddle, warning that failure to solve it before noon would result in banishment. Senaka sat in the foremost seat, while the Bodhisatta, the greatest of them, sat in the last. The Bodhisatta reasoned that the king must have seen something with his own eyes, and that the solution lay in discovering what that was. He anticipated that Senaka would find a way to delay the answer by one day. The other wise men, unable to see any solution, were bewildered. Senaka, perceiving the Bodhisatta’s wish for time, succeeded in persuading the king to grant them a day’s grace.
Threatened but permitted to reflect further, the wise men withdrew. Senaka advised the others to eat well and think carefully, knowing that great danger awaited them if they failed. Each then returned to his own house.
The Bodhisatta sought out Queen Udumbarā and learned that the king had spent the previous two days walking along the long walk and looking out from the windows. From this, the Bodhisatta concluded that the king must have witnessed something unusual there. He went to the place, observed the goat and the dog, and immediately understood the riddle. Having solved it, he returned home.
The other wise men discovered nothing and, fearing banishment, sought out Senaka. Realizing that the question lay beyond their abilities, they agreed that the Bodhisatta must have already solved it. Together they went to his house and respectfully requested his help. Though the Bodhisatta understood that he could gain sole honor if he remained silent, he chose instead to save them from ruin. Without revealing exactly what the king had seen, he composed four explanatory verses in Pāli, taught one to each of them, and sent them away.
On the following day, the wise men returned to the court and were questioned one by one. Each recited the verse he had been taught. Though none of them understood its meaning, the king believed they had each independently solved the riddle, since the verses accorded with what he himself had witnessed.
Finally, the king questioned the Bodhisatta. The Bodhisatta then explained clearly that the friendship between the goat and the dog arose from their mutual exchange of food, each bringing to the other what it could not safely obtain itself. He described how the king had personally witnessed this exchange from the palace terrace.
Delighted, the king believed that all five wise men had penetrated the subtle matter through their own wisdom. Praising their insight and eloquence, he rewarded each of them with a chariot, a female mule, and a fine village. In this way, all the wise men were honored, and the Bodhisatta’s compassion preserved his companions while wisdom triumphed.
.... o ....
J472. Maha-Paduma Jātaka -- Chuyện người phụ nữ vu khống Đức Phật.
Tóm tắt: Ciñcā vu khống Đức Phật lm cô có thai. Sau khi vua trời Sakka vạch trần lời nói dối của cô ta, cô bị rơi xuống địa ngục. Sau đó, Đức Phật kể một câu chuyện tiền kiếp về việc mẹ kế của ngài đã vu khống ngài và những hậu quả mà bà ta phải gánh chịu.
.
Khi đang cư ngụ tại Jetavana, Đức Phật đã kể câu chuyện về Cincamāṇavikā.
Sau khi Đức Như Lai đạt được giác ngộ tối thượng, các đệ tử của Ngài ngày càng đông, chư thiên và loài người được tái sinh vào cõi trời, và hạt giống thiện lành lan rộng khắp nơi. Ngài được tôn kính vô cùng, và nhận được vô số lễ vật. Ngược lại, các giáo chủ của các giáo phái đối địch lại mất hết sự ủng hộ. Họ đứng trên đường phố tự xưng mình cũng là Phật, nhưng không ai tôn kính hay cúng dường cho họ. Ảnh hưởng của họ tàn lụi như đom đóm sau khi mặt trời mọc. Thất vọng và nhục nhã, họ bí mật tụ tập và âm mưu hủy hoại danh tiếng của đạo sĩ Gotama bằng cách làm ô nhục Ngài.
Vào thời điểm đó, tại Sāvatthī có một người phụ nữ tên là Cincamāṇavikā, nổi tiếng về sắc đẹp và sự duyên dáng. Nhận thấy cô ta là phương tiện để thực hiện âm mưu của mình, những kẻ dị giáo đã thuyết phục cô ta giúp đỡ họ. Cô ta đồng ý thực hiện nhiệm vụ và ra đi, tự tin vào khả năng lừa dối của mình.
Từ đó trở đi, cô ta dùng mọi thủ đoạn để đánh lừa công chúng. Khi mọi người rời khỏi Jetavana sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp, người ta thấy cô ta đi về phía tu viện, mặc những bộ quần áo lộng lẫy và mang theo những vòng hoa thơm ngát. Cô ta ngủ đêm tại tu viện của những kẻ dị giáo gần đó, nhưng đến rạng sáng lại xuất hiện như thể vừa trở về từ Jetavana, như thể cô ta đã ở đó suốt đêm. Khi bị hỏi, cô ta né tránh mọi câu trả lời. Sau vài tuần, cô ta bắt đầu ám chỉ rằng mình đã ngủ đêm với chính Đức Phật. Sau vài tháng, cô ta buộc vải quanh bụng để tạo vẻ ngoài như đang mang thai và tuyên bố rằng Đức Phật là người chịu trách nhiệm. Nhiều người thiếu sáng suốt đã tin vào lời nói của cô ta.
Thời gian trôi qua, cô ta càng tăng cường sự lừa dối. Cô ta buộc những mảnh gỗ quanh eo dưới lớp áo để tạo cảm giác nặng nề như một đứa trẻ sắp chào đời. Cô ta làm cho cơ thể mình bị bầm tím và sưng tấy để trông có vẻ mệt mỏi và đau khổ. Một buổi tối, khi Đức Phật đang ngồi trước một đại hội lớn thuyết giảng Phật pháp, cô ta tiến lên và công khai buộc tội Ngài đã làm cho mình mang thai và bỏ rơi mình mà không chu cấp. Cô ta cố gắng làm ô uế sự thanh tịnh của Ngài trước đám đông, như thể cố gắng làm bẩn mặt trăng bằng bùn đất.
Đức Phật bình tĩnh tuyên bố rằng sự thật của vấn đề chỉ có người nói và chính Ngài biết. Ngay lúc đó, ngai vàng của Sakka, vua của các vị thần, trở nên nóng bỏng. Nhận ra nguyên nhân, thần Sakka cùng bốn vị thần khác đã giáng trần. Họ hóa thân thành những con chuột, gặm đứt những sợi dây buộc bó gỗ dưới lớp áo của cô ta. Một cơn gió mạnh bất ngờ thổi tung tà áo, phơi bày sự lừa dối trước toàn thể mọi người. Những mảnh gỗ rơi xuống đất, và trò lừa đảo đã bị vạch trần một cách rõ ràng.
Đám đông bùng lên sự phẫn nộ. Cincamāṇavikā bị đuổi khỏi Jetavana bằng những cú đánh và lời mắng nhiếc. Ngay khi cô ta khuất khỏi tầm mắt của Đức Phật, mặt đất nứt ra dưới chân cô ta. Ngọn lửa bốc lên từ lòng đất, và cô ta rơi xuống địa ngục thấp nhất, nơi cô ta tái sinh trong đau khổ. Từ ngày đó trở đi, sự tôn kính và cúng dường dành cho những kẻ dị giáo hoàn toàn chấm dứt, trong khi sự tôn kính đối với Đức Phật lại càng tăng thêm.
Ngày hôm sau, các vị tỳ kheo tụ tập trong Chánh điện và suy ngẫm về số phận khủng khiếp của kẻ đã vu khống Đức Phật. Khi Đức Phật bước vào và biết được chủ đề cuộc thảo luận của họ, Ngài giải thích rằng đây không phải là lần đầu tiên Ngài bị vu khống như vậy, cũng không phải là lần đầu tiên kẻ phạm tội phải chịu sự trừng phạt. Sau đó, Ngài kể một câu chuyện từ quá khứ.
Ngày xưa, khi Brahmadatta trị vì ở Benares, Bồ Tát được sinh ra là con trai của hoàng hậu và được đặt tên là Paduma Kumāra vì vẻ đẹp rạng rỡ của mình. Ngài lớn lên thành thạo mọi nghệ thuật và đức hạnh. Sau khi mẹ Ngài qua đời, nhà vua cưới thêm một người vợ khác và bổ nhiệm Paduma làm thái tử. Khi nhà vua đi dẹp loạn ở biên giới, vua giao phó việc chăm sóc hoàng hậu cho con trai mình.
Trong thời gian nhà vua vắng mặt, hoàng hậu nảy sinh dục vọng bất chính đối với Paduma. Khi Ngài kiên quyết từ chối những lời dụ dỗ của bà ta, bà quyết tâm hãm hại Ngài. Sợ bị bại lộ, bà ta giả vờ bệnh, tự làm mình bị thương và buộc tội thái tử tấn công mình. Tức giận và mù quáng vì dục vọng, nhà vua ra lệnh bắt giữ và xử tử con trai mình mà không điều tra.
Mặc dù người dân, triều đình và chính thái tử đều cầu xin, nhà vua vẫn ra lệnh ném Paduma xuống vực thẳm. Khi thái tử rơi xuống, vị thần núi đã can thiệp và cứu Ngài, đưa Ngài đến vương quốc của vua rắn, nơi Ngài được che chở trong một năm. Sau đó, Paduma chọn cuộc sống xuất gia và sống ở dãy Himalaya, tu luyện những thành tựu tâm linh cao siêu.
Cuối cùng, nhà vua biết rằng con trai mình vẫn còn sống và đi tìm Ngài. Khi gặp vị đạo sĩ Paduma, nhà vua nhận ra sai lầm nghiêm trọng của mình. Bồ Tát khuyên vua từ bỏ những việc làm sai trái và cai trị theo lẽ phải. Bị dày vò bởi sự hối hận, nhà vua trở về thành phố của mình, ra lệnh xử tử hoàng hậu giả mạo, và từ đó về sau cai trị một cách công bằng.
Sau khi kể xong câu chuyện, Đức Phật giải thích rằng Cincamāṇavikā đã vu khống ngài cả trong hiện tại và trong quá khứ xa xưa, và trong cả hai trường hợp, bà đều tự chuốc lấy tai họa cho chính mình.
.... o ....
J472. Maha-Paduma Jātaka -- The story of the woman who falsely accused the Buddha.
Summary: Ciñcā falsely accuses the Buddha of being the father of her child. After Sakka exposes her lie, she is condemned to hell. The Buddha then shares a story about a time when his stepmother falsely accused him and the consequences she faced as a result.
.
While dwelling at Jetavana, thes the Buddha related the story concerning Cincamāṇavikā.
After the Tathāgata attained supreme enlightenment, his disciples multiplied, gods and humans were reborn in heavenly realms, and the seeds of goodness spread widely. Great honor was shown to him, and abundant gifts were offered. The teachers of rival sects, by contrast, lost all support. They stood in the streets proclaiming themselves Buddhas as well, but no one honored them or gave them alms. Their influence withered like fireflies after sunrise. Frustrated and humiliated, they gathered in secret and plotted to destroy the reputation of the ascetic Gotama by bringing disgrace upon him.
At that time in Sāvatthī there lived a woman named Cincamāṇavikā, renowned for her beauty and grace. Seeing in her a means to carry out their scheme, the heretics persuaded her to assist them. She agreed to undertake the task and departed, confident in her ability to deceive.
From that time onward she used every artifice to mislead the public. As people left Jetavana after hearing the Buddha teach, she was seen walking toward the monastery adorned in bright robes and carrying fragrant garlands. She spent her nights in the nearby monastery of the heretics, yet at dawn appeared to return from Jetavana, as though she had stayed there. When questioned, she evaded all answers. After several weeks she began to hint that she had spent nights with the Buddha himself. After several months she bound cloth around her belly to give the appearance of pregnancy and declared that the Buddha was responsible. Many who lacked discernment believed her claims.
As time passed, she intensified the deception. She tied pieces of wood around her waist beneath her robe to resemble the weight of a child about to be born. She caused her body to be bruised and swollen so that she appeared exhausted and suffering. One evening, when the Buddha was seated before a great assembly expounding the Dhamma, she came forward and publicly accused him of having impregnated her and abandoning her without support. She attempted to defile his purity before the assembled multitude, as one might try to stain the moon with filth.
The Buddha calmly declared that the truth of the matter was known only to the one who spoke and to himself. At that moment, the throne of Sakka, king of the gods, grew hot. Perceiving the cause, Sakka descended with four deities. Assuming the form of mice, they gnawed through the cords binding the wooden bundle beneath her robe. A sudden gust of wind lifted her garment, exposing the deception before the entire assembly. The wooden pieces fell to the ground, and the fraud was unmistakably revealed.
The crowd erupted in outrage. Cincamāṇavikā was driven from Jetavana with blows and abuse. As soon as she passed beyond the range of the Buddha’s sight, the earth opened beneath her. Flames rose from the depths, and she fell into the lowest hell, where she was reborn in suffering. From that day onward, honor and offerings to the heretics ceased entirely, while reverence for the Buddha increased even more.
On the following day, monks gathered in the Hall of Truth and reflected upon the terrible fate of one who had falsely accused the Perfectly Enlightened One. When the Buddha entered and learned the subject of their discussion, he explained that this was not the first time such a slander had been committed against him, nor the first time the offender had met destruction. He then related a story from the past.
Long ago, when Brahmadatta ruled in Benares, the Bodhisatta was born as the son of the chief queen and named Paduma Kumāra because of his radiant beauty. He grew to maturity skilled in all arts and virtues. After his mother’s death, the king took another consort and appointed Paduma as viceroy. When the king departed to suppress a frontier rebellion, he entrusted the care of the queen to his son.
During the king’s absence, the queen conceived an unlawful desire for Paduma. When he steadfastly refused her advances, she resolved to destroy him. Fearing exposure, she feigned illness, disfigured herself, and accused the prince of assault. Enraged and blinded by passion, the king ordered his son to be seized and executed without investigation.
Despite the pleas of the people, the court, and the prince himself, the king commanded that Paduma be cast from the thieves’ cliff. As the prince fell, the deity of the mountain intervened and saved him, delivering him safely into the realm of the serpent king, who sheltered him for a year. Thereafter Paduma chose the life of renunciation and dwelt in the Himalayas, cultivating deep spiritual attainments.
Eventually the king learned that his son still lived and went to seek him out. In meeting the ascetic Paduma, the king realized his grievous error. The Bodhisatta admonished him to abandon wrongdoing and rule according to righteousness. Stricken with remorse, the king returned to his city, ordered the false queen to be executed, and thereafter governed justly.
Having completed the account, the Buddha explained that Cincamāṇavikā had falsely accused him both in the present and in the distant past, and that in both cases she had brought ruin upon herself.
.... o ....
J473. Mittamitta Jātaka -- Chuyện một vị quan thanh liêm bị đố kỵ và ghen ghét.
Tóm tắt: Những cận thần ghen ghét một vị quan trung thực đã tìm cách vu khống ông ta, và nhà vua đã hỏi ý kiến Đức Phật để xác định xem những lời buộc tội đó có đúng sự thật hay không. Đức Phật kể một câu chuyện về một tình huống tương tự trong quá khứ và giải thích những dấu hiệu để nhận biết đâu là bạn và đâu là kẻ thù.
.
Khi đang cư ngụ tại Jetavana, Đức Phật đã kể một câu chuyện về một vị quan thanh liêm phục vụ vua Kosala.
Vị quan này vô cùng tài giỏi và trung thành, và nhờ sự hữu ích của ông, nhà vua đã ban cho ông vinh dự lớn. Sự ưu ái dành cho ông đã gây ra sự oán giận trong số các quan lại khác, những người không thể chịu đựng được thành công của ông. Do lòng đố kỵ, họ đã đưa ra những lời buộc tội sai trái chống lại ông, cáo buộc ông đã hành động gây hại cho nhà vua. Nhà vua đã xem xét kỹ lưỡng những lời buộc tội này và không tìm thấy lỗi lầm nào ở người đó. Tuy nhiên, sự bất an vẫn ám ảnh ông, vì ông tự hỏi làm thế nào để thực sự phân biệt được bạn bè và kẻ thù khi cả hai đều có vẻ trung thành bề ngoài.
Nhận thấy sự khó khăn của việc phán xét này, nhà vua suy nghĩ rằng không ai ngoài Đức Phật có trí tuệ cần thiết để giải quyết vấn định này. Sau bữa ăn, ông đến Jetavana và tìm kiếm sự hướng dẫn từ Đức Phật. Đức Phật giải thích rằng những người khôn ngoan trong quá khứ đã phải đối mặt với vấn đề tương tự và, bằng cách tham khảo ý kiến của những người có khả năng phân biệt, họ đã học được cách nhận ra bạn bè thực sự và từ bỏ những kẻ thù tiềm ẩn. Theo yêu cầu của nhà vua, Ngài đã kể lại một sự kiện từ kiếp trước.
Vào thời xa xưa, khi Brahmadatta trị vì ở Benares, Bồ Tát phục vụ với tư cách là một vị quan nổi tiếng vì đã khuyên nhà vua một cách khôn ngoan trong cả những vấn đề thế tục và tâm linh. Trong thời kỳ đó, sự ghen tị lại nổi lên giữa các quan lại, và một vị quan thanh liêm trở thành mục tiêu của những lời vu khống. Mặc dù nhà vua không thể phát hiện ra bất kỳ hành vi sai trái nào ở người đó, nhưng sự nghi ngờ vẫn còn trong tâm trí ông. Tìm kiếm sự rõ ràng, ông đã tìm đến Bồ Tát để xin lời khuyên về cách phân biệt một người là bạn hay kẻ thù.
Bồ Tát giải thích rằng kẻ thù không chỉ bộc lộ bản thân qua sự thù địch công khai mà còn qua những kiểu hành vi. Người đó không thể hiện sự ấm áp chân thành, không vui mừng khi gặp mặt người khác, tránh giao tiếp chân thành và phản ứng bằng sự thờ ơ. Anh ta ưu ái kẻ thù của mình và bỏ bê những người bạn của mình. Anh ta không chia sẻ những bí mật của mình cũng như không giữ bí mật của người khác. Anh ta ít lời khen ngợi, tìm lỗi ở những nơi có công lao, vui mừng trước bất hạnh của người khác và không cảm thấy thông cảm khi người khác gặp may mắn. Thông qua những dấu hiệu lặp đi lặp lại như vậy, một người có khả năng phân biệt có thể nhận ra kẻ thù.
Bồ Tát sau đó mô tả những phẩm chất mà một người bạn thực sự có thể được nhận biết. Một người bạn nhớ đến bạn khi vắng mặt và vui mừng khi gặp lại. Người ấy tôn trọng bạn bè và tránh xa kẻ thù. Người ấy ngăn chặn những kẻ nói xấu và ủng hộ những người nói lời tốt đẹp. Người ấy giữ kín bí mật và bảo vệ trung thành những điều được giao phó. Người ấy nói lời trân trọng, vui mừng trước thành công của người khác, cảm thấy đau buồn trước bất hạnh, và đáp lại bằng sự đồng cảm và lòng rộng lượng. Bằng cách quan sát những phẩm chất đó theo thời gian, người khôn ngoan có thể tự tin nhận ra một người bạn chân chính.
Nghe lời giải thích rõ ràng và thấu đáo này, nhà vua vô cùng hài lòng và tôn kính Bồ Tát hơn tất cả những người khác vì trí tuệ và sự sáng suốt của ngài.
Sau khi hoàn thành bài thuyết pháp này, Đức Phật giải thích rằng câu hỏi về việc phân biệt bạn bè và kẻ thù đã từng xuất hiện trong quá khứ giống như hiện tại. Ngài dạy rằng bằng cách quan sát cẩn thận hành vi thông qua những dấu hiệu này, người ta có thể phân biệt lòng trung thành với sự thù địch ngấm ngầm. Sau đó, ngài tiết lộ danh tính của những nhân vật trong kiếp trước, cho biết rằng Ananda chính là nhà vua và chính ngài là vị quan cận thần khôn ngoan đã đưa ra lời khuyên đó.
.... o ....
J473. Mittamitta Jātaka -- The story of an honest official who faced envy and jealousy.
Summary: Courtiers who are jealous of an honest courtier try to slander him, and the king consults the Buddha to determine if their accusations are true. The Buddha responds with a story of a similar situation from the past and explains the signs by which a friend and a foe can be identified.
.
While dwelling at Jetavana, the Buddha related a story concerning an upright courtier in the service of the king of Kosala.
This courtier was exceptionally capable and loyal, and through his usefulness the king came to bestow upon him great honor. The favor shown to him stirred resentment among the other courtiers, who were unable to endure his success. Moved by envy, they brought false accusations against him, alleging that he had acted in ways harmful to the king. The king examined these charges carefully and found no fault in the man. Still, uncertainty troubled him, for he wondered how one might truly distinguish a friend from an enemy when both might appear outwardly loyal.
Recognizing the difficulty of this judgment, the king reflected that no one but the Tathāgata possessed the wisdom necessary to resolve such a question. After his meal, he went to Jetavana and sought guidance from the Buddha. The Buddha explained that wise people in the past had faced the same problem and, by consulting those endowed with discernment, had learned how to recognize true friends and renounce hidden enemies. At the king’s request, he then recounted an event from a former life.
In ancient times, when Brahmadatta ruled in Benares, the Bodhisatta served as a courtier renowned for advising the king wisely in both worldly and spiritual matters. During that period, jealousy again arose among the courtiers, and an upright official became the target of slander. Though the king could detect no wrongdoing in the man, doubt remained in his mind. Seeking clarity, he turned to the Bodhisatta for counsel on how one might discern whether a person was a friend or an enemy.
The Bodhisatta explained that an enemy reveals himself not through open hostility alone but through patterns of conduct. Such a person fails to show genuine warmth, does not rejoice at another’s presence, avoids sincere engagement, and responds with indifference. He shows favor to one’s adversaries and neglects one’s allies. He neither shares his own confidences nor guards the confidences of others. He speaks little praise, finds fault where there is merit, takes pleasure in another’s misfortune, and feels no sympathy when good fortune arises elsewhere. Through such repeated signs, a discerning person may recognize an enemy.
The Bodhisatta then described the qualities by which a true friend may be known. A friend remembers one in absence and rejoices upon reunion. He honors one’s companions and avoids one’s adversaries. He restrains slanderers and supports those who speak well. He entrusts his secrets and faithfully protects the confidences given to him. He speaks with appreciation, rejoices in another’s success, feels sorrow at misfortune, and responds with empathy and generosity of heart. By observing such qualities over time, a wise person can be confident in identifying a true friend.
Hearing this clear and measured explanation, the king was greatly pleased and honored the Bodhisatta above all others for his wisdom and insight.
Having completed this discourse, the Buddha explained that the same question of discerning friend from foe had arisen in the past just as it had in the present. He taught that by carefully observing conduct through these signs, one may distinguish loyalty from hidden enmity. He then identified the figures of that former life, revealing that Ananda had been the king and that he himself had been the wise courtier who gave the counsel.
.... o ....
J474. Amba Jātaka -- Lời nói dối hủy diệt sức mạnh tâm linh.
Tóm tắt: Devadatta khẳng định rằng Đức Phật không phải là thầy của y và chẳng bao lâu sau đó đã gặp phải sự diệt vong. Đức Phật kể câu chuyện về một vị Bà la môn học được một câu thần chú từ một người thuộc tầng lớp thấp kém, với điều kiện là ông ta phải thừa nhận người đó là thầy của mình. Khi ông từ chối thừa nhận người thầy, ông đã mất đi câu thần chú và chết trong cô độc.
.
Khi đang cư ngụ tại Jetavana, Đức Phật đã kể một câu chuyện liên quan đến Devadatta.
Devadatta đã từ bỏ thầy của mình, tuyên bố độc lập khỏi Đức Phật và cố gắng tự lập ra một giáo phái riêng. Bằng cách đó, ông ta đã gây ra sự chia rẽ trong Tăng đoàn. Khi ông ta tiến về Sāvatthī, mặt đất đã nứt ra dưới chân ông ta gần Jetavana, và ông ta rơi xuống địa ngục Avīci. Khi các vị tỳ kheo sau đó nói về sự kiện này trong Hội trường Chân lý, Đức Phật giải thích rằng Devadatta không chỉ phủ nhận thầy của mình trong kiếp này mà còn làm như vậy trong quá khứ xa xưa, và trong cả hai trường hợp, sự vô ơn đó đều dẫn đến sự hủy diệt. Sau đó, Ngài kể lại một câu chuyện từ một kiếp trước.
Ngày xưa, khi Brahmadatta trị vì làm vua xứ Benares, một cơn sốt khủng khiếp đã cướp đi sinh mạng của cả gia đình vị quan tế lễ hoàng gia. Chỉ có một người con trai sống sót, thoát ra ngoài qua một lỗ hổng trên tường. Chàng thanh niên này đến Takkasilā, nơi anh ta học tập dưới sự hướng dẫn của một vị thầy nổi tiếng và tinh thông tất cả các nghệ thuật và kỹ năng. Khi hoàn thành việc học, anh ta bắt đầu cuộc hành trình lang thang và cuối cùng đến một vùng biên giới gần một ngôi làng lớn có cư dân thuộc tầng lớp thấp kém Chandala.
Trong ngôi làng đó có Bồ Tát, một vị hiền triết uyên bác, người nuôi sống gia đình bằng một bùa chú mạnh mẽ khiến trái cây chín trái mùa. Mỗi buổi sáng, ông đến một cây xoài trong rừng, đứng ở một khoảng cách nhất định, đọc thần chú và rắc nước lên cây. Ngay lập tức, cây rụng hết lá cũ, mọc chồi non, nở hoa và kết trái xoài chín, ông hái chúng và bán để kiếm sống.
Chàng thanh niên Bà la môn quan sát Bồ Tát bán xoài chín trái mùa và nhận ra rằng kỳ tích đó chắc chắn phải dựa vào một bùa chú quý giá. Quyết tâm có được nó, anh ta bí mật theo dõi phương pháp của Bồ Tát và học được nó một cách chính xác. Sau đó, tự giới thiệu mình là một học trò khiêm tốn, anh ta vào nhà Bồ Tát và phục vụ ông tận tụy, làm mọi việc vặt, chăm sóc nhà cửa, thậm chí phục vụ cả đêm dài và cả khi sinh nở. Bồ Tát nhận thấy rằng chàng thanh niên muốn có bùa chú nhưng cũng biết rằng nó sẽ không ở lại với người thiếu đức hạnh. Theo lời khuyên của vợ, Bồ Tát cuối cùng cũng đồng ý dạy bùa chú cho chàng trai trẻ, nhưng cảnh báo rằng bùa chú sẽ chỉ có hiệu lực nếu anh ta không bao giờ phủ nhận danh tính của người thầy vì kiêu ngạo hoặc xấu hổ. Chàng trai trẻ đồng ý ngay lập tức, từ biệt thầy và đi đến Benares. Ở đó, anh ta dùng bùa chú để bán xoài và nhanh chóng tích lũy được của cải và quyền lực.
Vị ngọt của trái cây đã thu hút sự chú ý của nhà vua, và chàng trai trẻ được vào làm việc trong triều đình, cuối cùng giành được lòng tin của nhà vua. Khi nhà vua hỏi về nguồn gốc của những quả xoài, anh ta đã biểu diễn bùa chú trong công viên hoàng gia, khiến trái cây rơi xuống từ trên cây như mưa. Vui mừng và ấn tượng, nhà vua hỏi ai đã dạy anh ta phép thuật đó. Sợ bị chế giễu nếu nói ra tên một người thầy thuộc tầng lớp thấp kém, chàng trai trẻ đã nói dối rằng mình học được từ một vị thầy nổi tiếng ở Takkasilā. Ngay lập tức, sức mạnh của bùa chú biến mất.
Ngay sau đó, khi nhà vua lại yêu cầu xoài, chàng trai trẻ cố gắng lặp lại bùa chú nhưng hoàn toàn thất bại. Không thể lừa dối nhà vua, cuối cùng anh ta thú nhận rằng mình đã nói dối và phủ nhận người thầy chân chính của mình. Nhà vua suy ngẫm rằng trí tuệ và kỹ năng không bị giảm đi bởi xuất thân của người dạy chúng và lên án sự kiêu ngạo và vô ơn của chàng trai trẻ. Ông ra lệnh trục xuất người đàn ông đó khỏi vương quốc và ra lệnh cho anh ta phải xin tha thứ từ người thầy nếu muốn lấy lại bùa chú.
Bị trục xuất và nghèo khó, chàng trai trẻ trở về ngôi làng biên giới và cầu xin người thầy cũ tha thứ. Tuy nhiên, Bồ Tát nhắc nhở anh ta rằng bùa chú đã được dạy một cách chân thành và mất đi chỉ vì sự lừa dối và vô ơn. Nhận thấy không có khả năng khôi phục phép thuật cho một người thiếu đạo đức, ngài đã từ chối chàng trai trẻ.
Tuyệt vọng và không còn nơi nương tựa, người đàn ông lang thang vào rừng và chết một mình.
Sau khi kể xong câu chuyện này, Đức Phật giải thích rằng Devadatta đã hành động theo cách tương tự trong kiếp trước, phủ nhận người thầy của mình và phải chịu sự hủy hoại. Sau đó, ngài xác định các nhân vật trong kiếp sống đó, nói rằng Devadatta là người đàn ông vô ơn, Ananda là nhà vua, và chính ngài là người thầy thuộc tầng lớp thấp kém.
.... o ....
J474. Amba Jātaka -- Lies diminish spiritual power.
Summary: Devadatta asserts that the Buddha is not his teacher and soon meets destruction. The Buddha tells a story of a brahmin who learned a charm from an outcaste, on the condition that he acknowledge his teacher. When he repudiated his teacher, he lost the charm and died forlorn.
.
While dwelling at Jetavana, the Buddha related a story concerning Devadatta.
Devadatta had rejected his teacher, declaring independence from the Buddha and attempting to establish himself as a rival. By doing so, he caused a schism within the Order. As he proceeded toward Sāvatthī, the earth opened beneath him near Jetavana, and he fell into the Avīci hell. When the monks later spoke of this event in the Hall of Truth, the Buddha explained that Devadatta had not only denied his teacher in the present life but had done so in the distant past as well, and that on both occasions such ingratitude had led to destruction. He then recounted a story from a former existence.
Long ago, when Brahmadatta ruled as king of Benares, a terrible fever destroyed the family of the royal chaplain. Only one son survived, escaping through a breach in the wall. This youth traveled to Takkasilā, where he studied under a renowned teacher and mastered all the arts and accomplishments. When his studies were complete, he set out to wander and eventually came to a frontier region near a large village inhabited by low-caste Candalas.
In that village lived the Bodhisatta, a learned sage who supported his family by means of a powerful charm that caused fruit to ripen out of season. Each morning he went to a mango tree in the forest, stood at a fixed distance, recited the charm, and sprinkled water upon it. At once the tree shed its old leaves, put forth new growth, blossomed, and bore ripe mangoes, which he gathered and sold for a living.
The young brahmin observed the Bodhisatta selling ripe mangoes out of season and realized that such a feat must depend upon a valuable charm. Determined to obtain it, he secretly watched the Bodhisatta’s method and learned it precisely. Then, presenting himself as a humble student, he entered the Bodhisatta’s household and served him devotedly, performing every menial task, caring for the house, and even rendering service through long nights and at the time of childbirth. The Bodhisatta perceived that the youth sought the charm but also knew that it would not remain with one lacking integrity.
At his wife’s urging, the Bodhisatta eventually agreed to teach the charm, warning the youth that it would remain effective only if he never denied his teacher’s identity out of pride or shame. The youth agreed readily, took leave of his teacher, and traveled to Benares. There he used the charm to sell mangoes and quickly amassed wealth and influence.
The sweetness of the fruit came to the king’s notice, and the youth entered royal service, eventually gaining the king’s trust. When the king asked him about the origin of the mangoes, he demonstrated the charm in the royal park, causing fruit to rain from the trees. Pleased and impressed, the king asked who had taught him such magic. Fearing ridicule if he named a low-caste Candala, the youth falsely claimed to have learned it from a celebrated teacher of Takkasilā. At that very moment, the power of the charm vanished.
Soon afterward, when the king again requested mangoes, the youth attempted to repeat the charm but failed completely. Unable to deceive the king, he finally confessed that he had lied and had denied his true teacher. The king reflected that wisdom and skill are not diminished by the birth of the one who teaches them and condemned the youth’s pride and ingratitude. He ordered the man to be driven from the kingdom and commanded him to seek forgiveness from his teacher if he wished ever to regain the charm.
Cast out and destitute, the youth returned to the frontier village and begged his former teacher for pardon. The Bodhisatta, however, reminded him that the charm had been taught faithfully and lost solely through deceit and ingratitude. Seeing no possibility of restoring the spell to one who lacked moral restraint, he dismissed the youth.
Overcome by despair and seeing no refuge left to him, the man wandered into the forest and died alone.
Having finished this account, the Buddha explained that Devadatta had acted in the same way in former times, denying his teacher and suffering ruin as a result. He then identified the figures of that past life, stating that Devadatta had been the ungrateful man, Ananda the king, and he himself the low-caste teacher.
.... o ....
J475. Phandana Jātaka -- Bất hòa làm tăng đau khổ, trong khi đoàn kết bảo tồn hạnh phúc.
Tóm tắt: Người Sākiya và người Koliya đã gây chiến với nhau vì nguồn nước. Đức Phật kể một câu chuyện về một con sư tử tức giận với một cái cây và thỏa thuận với một người tiều phu để chặt hạ nó, trong khi vị thần bảo hộ của cái cây lại thỏa thuận với chính người tiều phu đó để giết con sư tử; cuối cùng, cả hai đều chịu tổn thất.
.
Khi đang trú ngụ bên bờ sông Rohinī, Đức Phật đã kể một câu chuyện về một cuộc tranh cãi giữa những người thân thích. Toàn bộ sự việc sau đó được giải thích chi tiết trong câu chuyện về sự ra đời của Kunāla, nhưng vào dịp này, Đức Phật đã khuyên nhủ những người thân đang tranh chấp bằng cách nhắc lại một sự kiện từ quá khứ xa xưa.
Ngày xưa, khi Brahmadatta trị vì vương quốc Benares, có một ngôi làng nằm ngoài thành phố, nơi sinh sống của những người thợ mộc. Trong số họ có một người thợ mộc thuộc dòng Bà La Môn, kiếm sống bằng cách vào rừng lấy gỗ và đóng xe ngựa để bán.
Ở vùng núi Himalaya có một cây plassey cổ thụ. Một con sư tử đen, trong khi đi săn mồi, thường nghỉ ngơi dưới gốc cây đó. Một ngày nọ, một cơn gió mạnh thổi qua, làm một cành cây khô rơi xuống và trúng vào vai con sư tử. Giật mình và bị thương, con sư tử nhảy vọt lên vì sợ hãi và nhìn xung quanh, nhưng không thấy kẻ thù nào gần đó, nó kết luận rằng thần cây chắc hẳn đang không hài lòng với mình. Sự tức giận nổi lên trong lòng nó mà không có lý do, và nó đấm vào cây một cách giận dữ, thề rằng sẽ sớm cho người chặt hạ và phá hủy cây đó. Sau khi nảy sinh ý định trả thù, nó đi tìm một người để thực hiện kế hoạch đó.
Vào thời điểm đó, người thợ mộc Bà La Môn cùng một vài người bạn đến vùng đó để lấy gỗ. Để lại xe ngựa phía sau, ông lang thang trong rừng mang theo dụng cụ để tìm những cây thích hợp. Tình cờ ông đến gần cây plassey cổ thụ. Con sư tử nhìn thấy ông, liền đứng dưới gốc cây, hy vọng sẽ khiến cây bị phá hủy thông qua hành động của người thợ mộc. Ban đầu, người thợ mộc, hoảng sợ khi nhìn thấy con sư tử, cố gắng bỏ chạy, nhưng con sư tử lên tiếng, khiến người đàn ông dừng lại trong sự kinh ngạc.
Ngạc nhiên trước khả năng kỳ lạ của một con vật có thể nói chuyện, người thợ mộc kết luận rằng sinh vật này chắc hẳn phải có kiến thức vượt trội hơn những sinh vật bình thường. Tin rằng con sư tử sẽ biết loại gỗ nào tốt nhất để làm xe ngựa, ông đã hỏi ý kiến nó. Con sư tử, háo hức thực hiện kế hoạch của mình, đã giới thiệu cây plassey là loại gỗ tốt nhất có thể dùng để làm bánh xe và xe ngựa. Nó mô tả sự dẻo dai, chắc chắn và hữu ích của loại gỗ này cho mọi bộ phận của một chiếc xe. Hài lòng và vui mừng, người thợ mộc chuẩn bị chặt cây.
Thần cây plassey, nhận ra rằng sự phá hủy sắp xảy ra mặc dù mình không làm gì sai, đã nổi giận. Quyết tâm trả thù, vị thần cây hóa thân thành một người tiều phu và tiếp cận người thợ mộc. Bằng lời lẽ khôn khéo, ông ta thuyết phục người thợ mộc rằng bánh xe sẽ chắc chắn hơn nếu được buộc bằng một dải da sư tử đen. Ông ta còn gợi ý rằng con sư tử đã đưa ra lời khuyên đó có thể dễ dàng bị giết khi không đề phòng, và cả da lẫn thịt của nó đều có giá trị.
Bị lòng tham và sự ham muốn lợi lộc che mắt, người thợ mộc đã làm theo lời khuyên đó. Anh ta giết con sư tử, chặt cây plassey và mang cả hai chiến lợi phẩm đi.
Qua câu chuyện này, Đức Phật đã minh họa cách mà sự tức giận và trả thù lẫn nhau mang lại sự hủy diệt cho tất cả những người liên quan. Giống như con sư tử và cái cây, mỗi bên đều bị lòng oán hận chi phối, dẫn đến sự hủy hoại lẫn nhau, thì những cuộc tranh cãi giữa con người cũng dẫn đến tai họa cho tất cả mọi người. Sự bất hòa làm gia tăng đau khổ, trong khi sự đoàn kết bảo tồn hạnh phúc. Vì vậy, người khôn ngoan ca ngợi sự hòa thuận, lòng kiên nhẫn và hòa bình, biết rằng những người vun đắp sự hòa hợp sẽ hướng đến hòa bình lâu dài.
Sau khi nghe lời dạy này, những người thân đang tranh cãi đã gạt bỏ sự thù địch và hòa giải với nhau.
Kết thúc bài thuyết pháp, Đức Phật đã tiết lộ danh tính của các nhân vật trong quá khứ, giải thích rằng chính Ngài là vị thần sống trong khu rừng đó và đã chứng kiến toàn bộ sự việc.
.... o ....
J475. Phandana Jātaka -- Discord multiplies suffering, while unity preserves well-being.
Summary: The Sākiyans and the Koliyans went to war over the water supply. The Buddha tells a story about a lion that became angry with a tree and arranged with a woodman to have it chopped down, while the tree's deity arranged with the same woodman to have the lion killed; in the end, both suffered losses.
.
While dwelling on the bank of the river Rohinī, the Buddha related a story concerning a quarrel among kinsmen. The full circumstances were later explained in the account of the Kunāla Birth, but on this occasion the Master addressed the disputing relatives by recalling an event from the distant past.
Long ago, when Brahmadatta ruled as king of Benares, there stood outside the city a village inhabited by carpenters. Among them lived a brahmin carpenter who earned his livelihood by going into the forest to collect timber and fashioning carts for sale.
In the region of the Himalayas there grew a great plassey tree. A black lion, while hunting for food, often rested at its roots. One day a strong wind struck the tree, causing a dry branch to fall and strike the lion on the shoulder. Startled and hurt, the lion leapt away in fear and looked about, but seeing no enemy nearby, he concluded that the spirit of the tree must be displeased with him. Anger arose in him without cause, and he struck the tree in fury, vowing that he would soon have it torn up and destroyed. Having thus conceived his revenge, he went in search of a human agent to carry it out.
At that time the brahmin carpenter had come with a few companions to that region in order to obtain timber. Leaving his cart behind, he wandered through the forest carrying his tools in search of suitable trees. By chance he came near the great plassey tree. The lion, seeing him, positioned himself beneath the tree, hoping to bring about its destruction through the carpenter’s actions. At first the carpenter, alarmed by the sight of the lion, attempted to flee, but the lion addressed him, causing the man to pause in astonishment.
Marvelling at the strange ability of a beast to speak, the carpenter concluded that such a creature must possess knowledge beyond that of ordinary beings. Believing that the lion would know which wood was best for cart-making, he sought advice. The lion, eager to fulfill his plan, recommended the plassey tree as the finest possible timber for wheels and carts. He described its flexibility, strength, and usefulness for every part of a vehicle. Satisfied and delighted, the carpenter prepared to fell the tree.
The spirit of the plassey tree, realizing that destruction was imminent despite having done no wrong, became enraged. Determined to retaliate, the tree-deity assumed the form of a woodman and approached the carpenter. By cunning speech he persuaded the carpenter that the cart wheel would be even stronger if bound with a strip of black lion’s skin. He further suggested that the lion who had given the advice could easily be killed while unsuspecting, and that both his skin and flesh would be of value.
Blinded by greed and fortune, the carpenter followed this counsel. He killed the lion, cut down the plassey tree, and departed with both spoils.
Through this story, the Buddha illustrated how mutual anger and retaliation bring destruction upon all involved. Just as the lion and the tree, each consumed by resentment, brought about one another’s ruin, so too do quarrels among people lead to harm on every side. Discord multiplies suffering, while unity preserves well-being. The wise therefore praise harmony, patience, and peace, knowing that those who cultivate concord move toward lasting peace.
Having heard this teaching, the quarrelling kinsmen laid aside their hostility and were reconciled.
At the conclusion of the discourse, the Buddha identified the figures of the past, explaining that he himself had been the deity dwelling in that forest who witnessed the entire affair.
.... o ....
J476. Javana-Hamsa Jātaka -- Sinh mạng phân rã từng khoảnh khắc, nhanh hơn nhiều so với bất kỳ chuyển động nào có thể nhìn thấy bằng mắt thường.
Tóm tắt: Đức Phật dạy về sự suy tàn nhanh chóng của các yếu tố cấu thành sự sống. Sau đó, Ngài kể câu chuyện về một con ngỗng nhanh hơn cả mặt trời. Khi được hỏi liệu có thứ gì nhanh hơn con ngỗng đó không, Ngài đã giảng pháp cho nhà vua, nhờ đó mà nhà vua quy y.
.
Câu chuyện này được Đức Phật kể khi ngài đang trú ngụ tại Jetavana, liên quan đến kinh Dalhadhamma Sutta, tức là câu chuyện ngụ ngôn về những người đàn ông mạnh mẽ. Trong bài giảng đó, Đức Phật đã giải thích sự suy tàn cực kỳ nhanh chóng của các yếu tố cấu thành sự sống, vượt qua cả tốc độ của mặt trời, mặt trăng, hay thậm chí cả các vị thần. Bằng hình ảnh minh họa này, ngài đã làm rõ sự yếu đuối và vô thường của tất cả mọi sự tồn tại hữu hình, gây ấn tượng sâu sắc về sự khẩn cấp và suy ngẫm cho cả các vị tỳ kheo và cư sĩ.
Hai ngày sau, các vị tỳ kheo đang thảo luận về bài giảng này trong Chánh điện, suy ngẫm về sức mạnh trí tuệ của Đức Phật và sự kính sợ mà nó truyền cảm hứng khi tiết lộ bản chất bất ổn và phù du của cuộc sống. Khi Đức Phật biết được chủ đề cuộc thảo luận của họ, ngài giải thích rằng việc bài giảng của ngài khơi dậy nỗi sợ hãi và sự giác ngộ không có gì đáng ngạc nhiên, vì ngay cả trong những kiếp trước, khi ngài sinh ra trong loài vật, ngài cũng đã tuyên bố chân lý tương tự và khiến các vị vua và triều đình phải run sợ. Sau đó, ngài kể một câu chuyện từ thời xa xưa.
Trong một thời đại xa xưa, khi Brahmadatta trị vì làm vua của Benares, Bồ Tát được sinh ra làm một con ngỗng vàng nhanh nhẹn sống trên núi Cittakuta giữa một đàn ngỗng khổng lồ gồm chín mươi nghìn con. Sau khi cùng đàn ngỗng ăn lúa hoang mọc trong một cái ao trên đồng bằng Ấn Độ, Bồ Tát sẽ bay trở lại ngọn núi. Khi bay qua bầu trời phía trên Benares, hình dáng rạng rỡ của ngài trải rộng khắp bầu trời như một tấm thảm vàng. Vua Benares, nhìn thấy cảnh tượng kỳ diệu này, đã nảy sinh lòng ngưỡng mộ sâu sắc đối với con chim và coi nó như một vị vua giống như mình. Bị thu hút bởi lòng kính trọng và tình cảm, nhà vua cùng tùy tùng mang theo vòng hoa, nước hoa và âm nhạc, đến tỏ lòng tôn kính Bồ Tát. Do đó, một mối quan hệ hữu nghị đã nảy sinh giữa nhà vua và con ngỗng cao quý.
Vào một dịp khác, khi nhà vua đang tận hưởng khu vườn thượng uyển của mình, Bồ Tát bay đến, mang theo nước trên một cánh và bột gỗ đàn hương trên cánh kia. Ngài rắc nước lên nhà vua và xức dầu gỗ đàn hương cho ông, rồi lại bay đi cùng đàn ngỗng trở về núi Cittakuta. Từ ngày đó trở đi, nhà vua luôn mong chờ những chuyến thăm của Bồ Tát và thường xuyên nhìn lên bầu trời, hy vọng ngài sẽ trở lại. Trong đàn ngỗng có hai con ngỗng non, nhỏ nhất trong tất cả, chúng tự hào về sức mạnh của mình và nảy sinh tham vọng liều lĩnh là đua với chính mặt trời. Mặc dù Bồ Tát đã nhiều lần cảnh báo chúng về sự nguy hiểm và khuyên chúng từ bỏ ý định đó, nhưng chúng vẫn ngoan cố, không biết đến giới hạn của bản thân. Trước khi mặt trời mọc, chúng đứng trên đỉnh núi Yugandhara, dự định bay cùng với mặt trời khi nó mọc lên.
Khi Bồ Tát phát hiện ra sự vắng mặt của chúng và biết được kế hoạch của chúng, ngài đã tiên đoán được sự diệt vong của chúng và quyết định cứu chúng. Ngài bay đến núi Yugandhara và ở gần chúng. Khi mặt trời mọc lên khỏi đường chân trời, hai con ngỗng non lao mình vào bầu trời, đua cùng với mặt trời, và Bồ Tát cũng bay cùng chúng. Chẳng bao lâu, con ngỗng nhỏ nhất kiệt sức, bị đau rát ở cánh. Bồ Tát đỡ nó lên đôi cánh dang rộng của mình, an ủi nó và đưa nó trở về núi Cittakuta an toàn, đặt nó vào giữa đàn. Sau đó, ngài trở lại bầu trời và tiếp tục bay cùng với con ngỗng thứ hai.
Gần giữa trưa, con ngỗng thứ hai cũng kiệt sức. Bồ Tát lại can thiệp, đưa nó trở về núi an toàn và cứu sống nó. Lúc đó, mặt trời đứng thẳng trên đỉnh đầu. Suy ngẫm về sự ngu ngốc khi cạnh tranh với mặt trời, Bồ Tát quyết định sử dụng sức mạnh của mình để dạy dỗ người bạn hoàng gia về sự công chính và chân lý.
Với tốc độ phi thường, ngài bay vòng quanh thế giới, rồi đi khắp chiều dài Ấn Độ, và cuối cùng hạ xuống thành phố Benares. Bóng của ngài bao phủ toàn bộ thành phố, khiến bầu trời dường như bị che kín không còn một khe hở nào. Khi tốc độ của ngài giảm dần, ánh sáng trở lại bầu trời, và ngài hạ xuống đậu gần cung điện của nhà vua. Nhà vua đón tiếp ngài với niềm vui và sự kính trọng lớn lao, đặt ngài lên một chiếc giá vàng và dâng cho ngài những món ăn và hương thơm ngon nhất. Bồ Tát sau đó kể lại tất cả những gì đã xảy ra.
Theo yêu cầu của nhà vua, Bồ Tát đã thể hiện tốc độ của mình. Bốn cung thủ giỏi được triệu tập, và một cột đá được dựng lên trong sân. Một chiếc chuông được buộc quanh cổ Bồ Tát. Khi các cung thủ đồng loạt bắn tên về bốn hướng, Bồ Tát biến mất, bắt được cả bốn mũi tên trước khi chúng chạm đất, và đặt chúng dưới chân các cung thủ, rồi lập tức trở lại chỗ cũ. Ngài giải thích rằng màn trình diễn này chỉ thể hiện tốc độ chậm nhất của ngài.
Sau đó, ngài dạy nhà vua rằng ngay cả tốc độ nhanh chóng này cũng không đáng kể so với sự suy tàn của các yếu tố cấu thành sự sống, chúng biến mất từng khoảnh khắc nhanh hơn bất kỳ chuyển động nào có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Nghe được chân lý sâu sắc này, nhà vua choáng váng vì sợ chết và ngất xỉu. Khi tỉnh lại, Bồ Tát khuyên ngài hãy sống tỉnh thức, hãy nhớ đến cái chết, hãy hành động chính trực, hãy bố thí rộng lượng và hãy hành xử cẩn trọng.
Nhà vua cầu xin Bồ Tát ở lại làm thầy của mình, nhưng Bồ Tát từ chối, giải thích rằng sự gắn bó thân thiết và kéo dài có thể làm hỏng ngay cả tình bạn, và tốt hơn là nên chia tay khi thiện chí vẫn còn nguyên vẹn. Ngài chỉ hứa rằng, nếu hoàn cảnh cho phép, họ có thể gặp lại nhau trong tương lai. Nói xong, Bồ Tát rời đi và trở về núi Cittakuta.
Sau khi kể xong câu chuyện, Đức Phật giải thích rằng ngay cả trong kiếp sống xa xưa đó, ngài đã tiết lộ sự vô thường của tất cả mọi thứ có điều kiện. Sau đó, ông giải thích các nhân vật trong câu chuyện: Ananda là vua của Benares, Moggallana và Sariputta là hai con ngỗng non, những người theo Phật là phần còn lại của đàn ngỗng, và chính ngài là con ngỗng vàng nhanh nhẹn.
.... o ....
J476. Javana-Hamsa Jātaka -- The decay of the elements of life perishes moment by moment, far more rapidly than any motion visible to the eye.
Summary: The Buddha teaches about the rapid decay of life’s elements. He then tells a story of a goose that was swifter than the sun. When asked if anything was swifter than the goose, he taught the Dhamma to the king, thereby converting him.
.
This story was told by the Buddha while he was dwelling at Jetavana, in connection with the Dalhadhamma Sutta, the Parable of the Strong Men. In that teaching, the Buddha explained the extreme swiftness of decay in the elements of life, surpassing even the speed of the sun, the moon, or the gods themselves. By this illustration he made clear the frailty and impermanence of all conditioned existence, impressing both monks and laypeople with a deep sense of urgency and reflection.
Two days later, the monks were discussing this teaching in the Hall of Truth, reflecting on the power of the Buddha’s wisdom and the awe it inspired by revealing the unstable and fleeting nature of life. When the Buddha learned the subject of their discussion, he explained that it was not remarkable that his teaching should awaken fear and insight, for even in past lives, when he had been born among animals, he had proclaimed the same truth and caused kings and courts to tremble. He then related a story from the distant past.
In a former age, when Brahmadatta ruled as king of Benares, the Bodhisatta was born as a swift golden goose living on Mount Cittakuta among a vast flock of ninety thousand geese. After feeding with the flock on wild rice growing in a pool on the plains of India, the Bodhisatta would fly back toward the mountain. As he passed through the sky above Benares, his radiant form spread across the heavens like a golden carpet. The king of Benares, seeing this wondrous sight, conceived a deep admiration for the bird and regarded him as a sovereign like himself. Drawn by reverence and affection, the king went forth with his retinue, bearing garlands, perfumes, and music, and paid honor to the Bodhisatta. Thus a bond of friendship arose between the king and the noble goose.
On a later occasion, while the king was enjoying his pleasure garden, the Bodhisatta flew to him, bearing water on one wing and sandalwood powder on the other. He sprinkled the king with water and anointed him with sandalwood, then departed again with his flock to Mount Cittakuta. From that day onward, the king longed for the Bodhisatta’s visits and often watched the sky, hoping for his return.
Among the flock were two young geese, the youngest of all, who became proud of their strength and conceived the reckless ambition of racing with the sun itself. Though the Bodhisatta warned them repeatedly of the danger and urged them to abandon the attempt, they persisted, ignorant of their own limits. Before sunrise, they stationed themselves upon the peak of Mount Yugandhara, intending to fly alongside the sun at its rising.
When the Bodhisatta discovered their absence and learned of their plan, he foresaw their destruction and resolved to save them. He flew to Mount Yugandhara and remained near them. As the sun rose above the horizon, the two young geese launched themselves into the sky, racing alongside it, and the Bodhisatta flew with them. Before long, the youngest faltered, overcome by exhaustion and burning pain in his wings. The Bodhisatta gathered him upon his outspread wings, soothed him, and bore him safely back to Mount Cittakuta, placing him among the flock. Then he returned to the sky and continued alongside the second bird.
Near midday, the second goose also succumbed to exhaustion. The Bodhisatta again intervened, carried him safely back to the mountain, and saved his life. At that moment, the sun stood directly overhead. Reflecting on the folly of competing with the sun, the Bodhisatta resolved instead to use his powers to instruct his royal friend in righteousness and truth.
With extraordinary speed, he circled the world, then traversed the length of India, and finally descended upon the city of Benares. His shadow covered the entire city, so that the sky itself seemed sealed without a single opening. As his speed gradually lessened, light returned to the heavens, and he came down to alight near the king’s palace. The king received him with great joy and honor, seating him upon a golden perch and tending to him with the finest foods and perfumes. The Bodhisatta then related all that had occurred.
At the king’s request, the Bodhisatta demonstrated his speed. Four skilled archers were summoned, and a stone pillar was set in the courtyard. A bell was fastened around the Bodhisatta’s neck. As the archers shot arrows simultaneously in four directions, the Bodhisatta vanished, caught all four arrows before they struck the ground, and placed them at the feet of the archers, returning instantly to his perch. He explained that this display represented only the slowest measure of his speed.
He then taught the king that even this swiftness was insignificant compared with the decay of the elements of life, which perish moment by moment far more rapidly than any motion visible to the eye. Hearing this profound truth, the king was overwhelmed by fear of death and lost consciousness. When he recovered, the Bodhisatta urged him to live mindfully, to remember death, to act righteously, to give generously, and to practice careful conduct.
The king begged the Bodhisatta to remain as his teacher, but the Bodhisatta declined, explaining that close and prolonged association can corrupt even friendship, and that it was better to depart while goodwill remained intact. He promised only that, if circumstances allowed, they might meet again in the future. With this, the Bodhisatta departed and returned to Mount Cittakuta.
Having finished the story, the Buddha explained that even in that distant life, he had revealed the impermanence of all conditioned things. He then identified the characters of the story: Ananda had been the king of Benares, Moggallana and Sariputta the two young geese, the Buddha’s followers the rest of the flock, and he himself the swift golden goose.
.... o ....
J477. Culla-Narada Jātaka -- Đừng để dục vọng chế ngự bạn.
Tóm tắt: Một vị sư dự tính từ bỏ cuộc sống tu hành vì một thiếu nữ cám dỗ. Đức Phật kể lại câu chuyện về một người cha đưa con trai mình đến dãy Himalaya để tu hành khổ hạnh. Ở đó, một cô gái đã cố gắng quyến rũ người con trai, nhưng sau khi nghe lời khuyên của cha về những khó khăn của cuộc sống thế tục, anh ta đã quyết định không đi đến thành phố cùng với cô ấy.
.
Câu chuyện này được Đức Phật kể khi ngài đang cư ngụ tại Jetavana, về sự nguy hiểm của sự quyến rũ sắc dục và sức mạnh của dục vọng có thể làm suy yếu đời sống tâm linh.
Vào thời đó, tại Savatthi có một thiếu nữ khoảng mười sáu tuổi, con gái của một người dân giàu có. Cô được coi là may mắn và xinh đẹp, nhưng không có người đàn ông nào cầu hôn cô. Mẹ cô, lo lắng về điều này, đã nghĩ ra một kế hoạch. Bà quyết định dùng con gái mình làm mồi nhử để dụ một vị sư trở lại cuộc sống thế tục và tìm được người hỗ trợ cho gia đình.
Ở Savatthi có một thanh niên thuộc gia đình giàu có đã xuất gia và gia nhập Tăng đoàn. Tuy nhiên, sau khi nhận giới đầy đủ, anh mất hứng thú với việc học tập và tu tập, và trở nên quá chú trọng đến việc trang điểm cá nhân. Vị sư trẻ chăm sóc vẻ ngoài của mình, để cho các giác quan tự do phóng túng, và ít quan tâm đến việc tu dưỡng nội tâm.
Mẹ của cô gái thường xuyên chuẩn bị cháo gạo và các món ăn khác, rồi đứng ở cửa nhà quan sát các vị sư đi qua đường. Nhiều vị sư uyên bác và giữ giới nghiêm túc đi qua, những bậc thầy về kinh điển và kiên định trong việc giữ giới, nhưng không ai đáp lại lời mời thầm lặng của bà. Cuối cùng, bà nhận thấy một vị sư có vẻ ngoài cho thấy sự bám chấp vào thân thể và sự buông thả các giác quan. Nhận thấy vị sư trẻ dễ bị cám dỗ, bà chào đón anh vào nhà, mời anh ăn uống và khuyến khích vị sư quay lại lần nữa. Theo thời gian, vị sư trẻ trở thành khách quen và dần dần trở nên thân thiết với gia đình.
Một ngày nọ, người phụ nữ cố tình nói về việc gia đình thiếu một người con trai hoặc con rể có khả năng duy trì gia đình. Vị sư nghe vậy, trong lòng cảm thấy băn khoăn. Theo lời chỉ dẫn của mẹ, cô gái bắt đầu trang điểm và sử dụng mọi thủ đoạn quyến rũ. Dưới ảnh hưởng của dục vọng, vị sư mất đi ý chí và kết luận rằng mình không thể tiếp tục tu tập theo lời dạy của Đức Phật nữa. Anh ta trả lại bát và y phục, thú nhận sự không hòa hợp của mình với các vị thầy, và những người này đã đưa anh ta lại đến gặp Đức Phật.
Khi Đức Phật biết rằng sự bất hòa hợp của vị sư xuất phát từ sự quyến luyến một thiếu nữ gợi cảm, ngài nhắc nhở anh ta rằng chính cô này cũng đã gây hại cho anh ta trong kiếp trước. Theo yêu cầu của các vị sư, Đức Phật sau đó đã kể lại câu chuyện đó.
Trong một quá khứ xa xưa, khi Brahmadatta trị vì ở Benares, Bồ Tát được sinh ra trong một gia đình Bà La Môn giàu có. Sau khi hoàn thành việc học, ngài quản lý gia sản của gia đình. Khi vợ ngài sinh con trai rồi qua đời, Bồ Tát suy ngẫm sâu sắc về sự vô thường. Nhận ra rằng cái chết không tha một ai, ngài từ bỏ cuộc sống gia đình và lên dãy Himalaya cùng cậu con trai, sống cuộc đời khổ hạnh. Ở đó, họ sống trong rừng, ăn trái cây và rễ cây, và nhờ sự tu tập kiên trì, Bồ Tát đã đạt được trạng thái thiền định sâu sắc và trí tuệ cao siêu.
Vào thời điểm đó, những kẻ cướp biên giới tấn công các làng mạc và bắt giữ tù binh. Trong số những người bị bắt có một cô gái trẻ rất xinh đẹp nhưng tính cách lanh lợi. Sợ cuộc sống nô lệ, cô ta nghĩ ra một mưu kế để trốn thoát và chạy vào rừng. Lang thang trong rừng, cô ta đến túp lều của vị khổ hạnh trong khi Bồ Tát đang đi kiếm thức ăn, để con trai ở lại một mình.
Sử dụng sự quyến rũ và xảo trá của mình, cô gái đã dụ dỗ chàng trai trẻ và khiến anh ta từ bỏ đức hạnh. Cô ta thuyết phục anh ta rằng cuộc sống trong rừng rất khắc nghiệt và niềm vui và sự thoải mái có thể tìm thấy ở các làng mạc. Khi nhận ra rằng sự trở về của người cha sẽ gây nguy hiểm cho kế hoạch của mình, cô ta bỏ đi một mình, để lại chàng trai bối rối và đau khổ. Sau khi cô ta bỏ đi, chàng trai trẻ bỏ bê nhiệm vụ của mình và nằm ủ rũ trong túp lều.
Khi Bồ Tát trở về, ngài nhận thấy dấu chân của một người phụ nữ và ngay lập tức hiểu chuyện gì đã xảy ra. Nhìn thấy tình trạng của con trai, ngài nhận ra rằng dục vọng đã chế ngự cậu. Sau đó, con trai thừa nhận mong muốn từ bỏ cuộc sống trong rừng và trở về thế giới trần tục.
Bồ Tát hướng dẫn con trai một cách cẩn thận, giải thích những nguy hiểm đang chờ đợi người trở lại cuộc sống trần tục. Ngài mô tả chất gây say là chất độc đối với những người có khuynh hướng tâm linh, dục vọng là vực thẳm mà nhiều người rơi xuống, danh dự và danh tiếng là bùn làm vấy bẩn sự trong sạch, và sự giao du với vua chúa và quyền lực là những con rắn mang đến nguy hiểm. Bồ Tát khuyên con nên tiết chế trong ăn uống, kiềm chế các giác quan, và tránh nói chuyện nhảm nhí và giao du với những người xấu.
Khi Bồ Tát tiếp tục hướng dẫn, con trai lấy lại sự minh mẫn và từ bỏ ham muốn cuộc sống trần tục. Chàng trai cam kết lại với việc tu tập khổ hạnh và làm theo lời chỉ dẫn của cha. Theo thời gian, anh ta đạt được trạng thái thiền định sâu sắc, và cả cha và con, kiên định trong thiền định, đều được tái sinh vào cõi trời Brahma.
Sau khi kết thúc câu chuyện, Đức Phật đã xác định các nhân vật trong kiếp sống quá khứ đó. Cô gái lãng mạn hiện tại chính là người phụ nữ đã lừa dối con trai của vị khổ hạnh trong quá khứ. Vị sư không hòa hài đó chính là người con trai, và Bồ Tát chính là người cha đã hướng dẫn chàng trai trở lại con đường đúng đắn.
.... o ....
J477. Culla-Narada Jātaka -- Do not let desire overcome you.
Summary: One monk is at risk of abandoning the monastic life due to the temptations of a young woman. The Buddha recounts a story about a father who took his son to the Himalayas to become ascetics. There, a woman attempted to seduce the son, but after hearing his father’s advice about the difficulties of lay life, he decided against going to the city with her.
.
This story was told by the Buddha while he was dwelling at Jetavana, concerning the danger of sensual allure and the power of desire to undermine spiritual life.
At that time in Savatthi there lived a young girl of about sixteen, the daughter of a respectable citizen. She was considered outwardly fortunate and well formed, yet no man sought her hand. Her mother, troubled by this, devised a scheme. She resolved to use her daughter as a lure to draw a monk back into worldly life and secure a supporter for their household.
Living in Savatthi was a young man of good family who had renounced the world and entered the Order. After receiving full ordination, however, he lost interest in study and discipline and became preoccupied with personal adornment. He took care of his appearance, allowed his senses free rein, and showed little concern for inner cultivation.
The girl’s mother regularly prepared rice gruel and other foods and stood at her doorway watching the monks as they passed through the streets. Many learned and disciplined monks went by, masters of the scriptures and firm in restraint, but none responded to her unspoken invitation. At last she noticed one monk whose appearance betrayed attachment to the body and indulgence of the senses. Recognizing him as vulnerable, she welcomed him into the house, offered him food, and encouraged him to return again. Over time, he became a frequent visitor and gradually grew intimate with the household.
One day the woman deliberately spoke of her household’s lack of a son or son-in-law capable of maintaining it. The monk, hearing this, became inwardly disturbed. Acting on her mother’s instructions, the girl then began to adorn herself and employ all the arts of seduction. Under the influence of passion, the monk lost his resolve and concluded that he could no longer continue in the Buddha’s teaching. He returned his bowl and robe and confessed his dissatisfaction to his teachers, who brought him before the Buddha.
When the Buddha learned that the monk’s discontent had arisen because of attachment to a sensual woman, he reminded him that this very same woman had caused him harm in a former life as well. At the monks’ request, the Buddha then recounted that earlier story.
In a distant past, when Brahmadatta ruled in Benares, the Bodhisatta was born into a wealthy brahmin family. After completing his education, he managed the family estate. When his wife gave birth to a son and then died, the Bodhisatta reflected deeply on impermanence. Realizing that death spares no one, he renounced household life and went into the Himalayas with his young son, adopting the life of an ascetic. There they lived in the forest, subsisting on fruits and roots, and through disciplined practice the Bodhisatta attained deep meditative absorption and higher knowledge.
At that time, border raiders attacked villages and carried off prisoners. Among the captives was a young woman of great beauty but cunning character. Fearing a life of slavery, she devised a ruse to escape and fled into the forest. Wandering there, she came upon the ascetic’s hut while the Bodhisatta was away gathering food, leaving his son alone.
Using her charm and deceit, the woman enticed the young ascetic and caused him to abandon his virtue. She persuaded him that forest life was harsh and that pleasure and comfort could be found in the villages. When she realized that the father’s return would endanger her plan, she departed alone, leaving the boy confused and distressed. After her departure, the young ascetic neglected his duties and lay despondent in the hut.
When the Bodhisatta returned, he noticed the footprint of a woman and immediately understood what had occurred. Seeing his son’s condition, he recognized that desire had overcome him. The son then admitted his wish to abandon the forest life and return to the world.
The Bodhisatta instructed him carefully, explaining the dangers that awaited one who returned to worldly life. He described intoxicants as poison for the spiritually inclined, sensual desire as a precipice into which many fall, honor and fame as mud that stains purity, and association with kings and power as serpents that bring danger. He advised moderation in food and drink, restraint of the senses, and avoidance of idle talk and corrupt company.
As the Bodhisatta continued his instruction, the son regained clarity and renounced his desire for worldly life. He recommitted himself to ascetic practice and followed his father’s guidance. In time, he attained deep meditation, and both father and son, steadfast in contemplation, were reborn in the Brahma world.
Having concluded the story, the Buddha identified the characters of that past life. The coarse girl of the present was the same woman who had misled the ascetic’s son in the past. The discontented monk had been that son, and the Bodhisatta himself had been the father who guided him back to the path.
.... o ....
J478. Duta Jātaka -- Chuyện chàng trai Bà La Môn rơi mất tiền học phí.
Tóm tắt: Các vị sư thảo luận về sự khéo léo của Đức Phật trong việc giảng dạy. Đức Phật kể một câu chuyện về một chàng thanh niên Bà la môn, sau khi hoàn thành việc học, đã đánh mất tiền học phí và ngồi bên bờ sông Hằng cho đến khi nhà vua đến, vì chỉ có nhà vua mới có thể giải quyết được vấn đề này.
.
Câu chuyện này được Đức Phật kể lại khi ngài đang cư ngụ tại Jetavana, để đáp lại lời ca ngợi về trí tuệ khéo léo và khả năng hướng dẫn chúng sinh bằng những phương pháp phù hợp với bản chất của họ. Trong Hội trường Chánh pháp, các vị tỳ kheo đang suy ngẫm về nhiều cách thức khéo léo mà Đức Phật đã dẫn dắt mọi người đến giác ngộ, nhận thấy cách ngài điều chỉnh giáo lý của mình cho phù hợp với tính cách của từng cá nhân. Khi Đức Phật biết được cuộc thảo luận của họ, ngài giải thích rằng sự khéo léo như vậy không chỉ có trong kiếp sống hiện tại của ngài, mà đã được ngài thực hành từ rất lâu trước đây. Sau đó, ngài kể một câu chuyện từ quá khứ.
Vào một thời xa xưa, khi Brahmadatta trị vì làm vua xứ Benares, vàng trở nên khan hiếm khắp cả nước vì nhà vua đã áp bức dân chúng và tích lũy của cải cho riêng mình. Vào thời điểm đó, Bồ Tát được sinh ra trong một gia đình Bà La Môn ở một ngôi làng thuộc xứ Kasi. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài đến Takkasila để theo học, quyết tâm kiếm tiền học phí một cách danh dự bằng cách xin bố thí sau khi hoàn thành việc học.
Sau khi thành thạo việc học, Bồ Tát từ biệt thầy và lên đường để thu thập khoản tiền học phí còn thiếu. Đi qua các thị trấn và làng mạc, ngài kính cẩn xin bố thí và dần dần tích lũy được một lượng vàng nhỏ. Khi đã có đủ số tiền cần thiết, ngài bắt đầu hành trình trở về gặp thầy. Tuy nhiên, khi đang đi thuyền qua sông Hằng, con thuyền bị lắc lư trên mặt nước, và số vàng tuột khỏi tay ngài và rơi xuống sông.
Suy ngẫm về sự khó khăn trong việc kiếm vàng ở đất nước đó, Bồ Tát nhận ra rằng việc tìm lại số tiền đó sẽ mất rất nhiều thời gian. Do đó, ngài đã nghĩ ra một kế hoạch dựa trên sự kiên nhẫn và sự sáng suốt. Quấn áo choàng quanh người và chỉnh lại sợi chỉ thiêng liêng, ngài ngồi xuống bờ sông Hằng và bắt đầu nhịn ăn, bất động như một bức tượng vàng trên bãi cát trắng.
Những người qua đường nhận thấy dáng vẻ bất động của ngài và hỏi han, nhưng ngài vẫn im lặng. Trong những ngày tiếp theo, dân làng, người dân thị trấn, quan chức thành phố, và cuối cùng là các cận thần của nhà vua đến hỏi thăm tình trạng của ngài, nhưng ngài không giải thích gì với bất kỳ ai trong số họ. Khi những ngày trôi qua, sự lo lắng lan rộng, và cuối cùng chính nhà vua cũng đến gặp vị khổ hạnh đang ngồi bất động bên bờ sông.
Chỉ khi nhà vua xuất hiện, Bồ Tát mới giải thích tình huống của mình. Ông ấy nói rõ rằng nỗi buồn chỉ nên được bày tỏ với người có khả năng và sẵn lòng giúp đỡ, chứ không phải với những người không thể giúp được. Sau đó, ông kể lại việc mình đã đi khắp nơi, xin bố thí một cách trang trọng từ các gia chủ, quan lại, người giàu có và cả các vị Bà La Môn, cho đến khi thu thập được một lượng vàng nhỏ để trả ơn thầy. Ông giải thích rằng số vàng đó đã bị mất dưới sông, khiến ông vô cùng đau khổ. Ông nhận thấy chỉ có nhà vua mới có khả năng bù đắp cho sự mất mát này, và vì lý do đó, ông đã giữ im lặng cho đến khi nhà vua đích thân đến.
Cảm động trước sự kiềm chế, trí tuệ và sự sáng suốt của Bồ Tát, nhà vua đã ban cho ông số vàng gấp đôi số vàng đã mất. Bồ Tát sau đó đã trả ơn thầy đầy đủ. Nhà vua, ngược lại, suy ngẫm về bài học mà mình đã nhận được và từ đó cai trị vương quốc một cách công bằng, thực hành lòng rộng lượng và hành vi tốt đẹp.
Như vậy, cả Bồ Tát và nhà vua đều sống theo những nguyên tắc tốt đẹp và qua đời theo đúng những việc làm của mình.
Khi Đức Phật kết thúc bài thuyết pháp này, Ngài nhắc nhở các vị tỳ kheo rằng khả năng giảng dạy bằng những phương pháp thích hợp hiện tại của Ngài chỉ là sự tiếp nối trí tuệ mà Ngài đã tu luyện qua vô số kiếp trước. Sau đó, Ngài xác định các nhân vật trong câu chuyện, giải thích rằng Ananda là nhà vua, Sariputta là người thầy, và chính Ngài là vị Bà La Môn trẻ tuổi ngồi nhịn ăn bên bờ sông Hằng.
.... o ....
J478. Duta Jātaka -- The Brahmin Youth’s Lost Tuition
Summary: The monks are discussing the Buddha’s resourcefulness in teaching. The Buddha tells a story about a young Brahmin who, having finished his studies, lost his teacher’s fee and sat on the bank of the Ganges until the king arrived, as only the king could resolve the matter.
.
This story was told by the Buddha while he was dwelling at Jetavana, in response to praise of his skillful wisdom and his ability to guide beings by methods suited to their nature. In the Hall of Truth, the monks were reflecting on the many ingenious ways the Buddha had led people to awakening, noting how he adapted his teaching to each individual’s disposition. When the Buddha learned of their discussion, he explained that such skillfulness was not unique to his present life, but had been practiced by him long ago as well. He then related a story from the past.
In a former age, when Brahmadatta ruled as king of Benares, gold was scarce throughout the land because the king had oppressed his people and gathered wealth for himself. At that time, the Bodhisatta was born into a brahmin family in a village of the Kasi country. When he came of age, he went to Takkasila to pursue his studies, resolving to obtain his teacher’s fee honorably through alms after completing his education.
After mastering his studies, the Bodhisatta took leave of his teacher and set out to gather the payment owed to him. Traveling through towns and villages, he respectfully sought alms and gradually accumulated a small amount of gold. When he had obtained what he believed sufficient, he began his journey back to his teacher. While crossing the Ganges by boat, however, the vessel rocked on the water, and the gold slipped from his possession and was lost in the river.
Reflecting on the difficulty of acquiring gold in that country, the Bodhisatta realized that seeking the money again would require a long delay. He therefore conceived a plan grounded in patience and discernment. Wrapping his robe about him and arranging his sacred thread outwardly, he seated himself on the bank of the Ganges and undertook a fast, remaining motionless like a golden statue upon the pale sand.
Passersby noticed his unmoving figure and questioned him, but he remained silent. On successive days, villagers, townspeople, city officials, and finally royal attendants came to inquire into his condition, yet he offered no explanation to any of them. As the days passed, concern spread, and at last the king himself came to see the ascetic sitting in stillness by the river.
Only when the king appeared did the Bodhisatta explain his situation. He made clear that sorrow should be revealed only to one who has the power and willingness to relieve it, and not to those who are unable to help. He then described how he had traveled widely, begging honorably from householders, courtiers, wealthy men, and brahmins alike, until he had gathered a small amount of gold to repay his teacher. That gold, he explained, had been lost in the river, leaving him in distress. He had judged that the king alone possessed the capacity to remedy this loss, and for that reason had remained silent until the king himself came.
Moved by the Bodhisatta’s restraint, wisdom, and discernment, the king provided him with twice the amount of gold he had lost. The Bodhisatta then proceeded to repay his teacher in full. The king, in turn, reflected on the lesson he had received and thereafter governed his realm righteously, practicing generosity and good conduct.
Thus both the Bodhisatta and the king lived according to wholesome principles and passed away in accordance with their deeds.
When the Buddha concluded this discourse, he reminded the monks that his present skill in teaching through appropriate means was only a continuation of the wisdom he had cultivated over countless past lives. He then identified the figures of the story, explaining that Ananda had been the king, Sariputta the teacher, and he himself the young brahmin who sat fasting by the bank of the Ganges.
.... o ....
J479. Kalinga-Bodhi Jātaka -- Trưởng lão Ānanda xinđược trồng một cây Bồ đề ở Jetavana.
Tóm tắt: Các tín đồ ở Sāvatthi mong muốn có một dấu hiệu do Đức Phật để lại trước khi Ngài lên đường thuyết pháp. Trưởng lão Ānanda xin phép được trồng một cây Bồ đề ở Jetavana và thỉnh Đức Phật ngồi dưới gốc cây đó một đêm. Sau đó, Đức Phật kể lại một câu chuyện từ kiếp trước, khi Ngài còn là một vị Chuyển luân thánh vương, Ānanda đã tìm thấy địa điểm của cây Bồ đề và thờ phụng ở đó.
.
Câu chuyện này được Đức Phật kể khi Ngài đang cư ngụ tại Jetavana, liên quan đến việc tôn thờ cây bồ đề do Tôn giả Ananda thực hiện.
Khi Đức Như Lai lên đường hành hương để giáo hóa những người sẵn sàng giải thoát, người dân Savatthi đến Jetavana mang theo vòng hoa và những bó hoa thơm. Không tìm thấy đối tượng thờ phụng nào trong tu viện khi Đức Phật vắng mặt, họ đặt lễ vật của mình ở cổng vào Tịnh thất và ra về. Hành động tôn kính tự phát này đã mang lại niềm vui lớn cho mọi người. Khi Anathapindika (cư sĩ Cấp Cô Độc) biết được điều này, ông suy nghĩ rằng trong khi Đức Phật đi vắng, tu viện không có nơi nào để mọi người thờ phụng. Vì vậy, ông đến gặp Tôn giả Ananda và nhờ ông hỏi Đức Phật xem liệu có thể thiết lập một nơi thờ phụng thích hợp cho lợi ích của các tín đồ hay không.
Ananda trình bày vấn đề này với Đức Phật, Ngài giải thích rằng trong khi các bảo tháp chứa xá lợi chỉ có thể được xây dựng sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, và các đền thờ tưởng niệm chỉ dựa vào trí tưởng tượng, thì cây bồ đề vĩ đại dưới gốc cây mà các vị Phật đạt được giác ngộ lại thích hợp để thờ phụng dù Đức Phật còn sống hay đã nhập Niết bàn. Do đó, Ngài chấp thuận đề nghị của Ananda về việc trồng một cây bồ đề ở lối vào Jetavana như một đối tượng tôn kính lâu dài.
Ananda thông báo cho Anathapindika, Visakha và vua Kosala, và công tác chuẩn bị được tiến hành. Một hố được đào ở cổng vào Jetavana, và Tôn giả Moggallana được yêu cầu lấy một quả từ cây bồ đề vĩ đại. Bằng thần thông của mình, Moggallana bay lên không trung, lấy một quả khi nó đang rơi từ cây thiêng và mang về cho Ananda. Vua Kosala được thông báo, và tối hôm đó ông đến cùng với một đoàn tùy tùng lớn, cùng với Anathapindika, Visakha và một đám đông lớn các tín đồ cư sĩ.
Một chiếc bình vàng chứa đầy đất được làm ẩm bằng nước thơm được chuẩn bị tại nơi trồng cây. Nhà vua được mời trồng hạt giống, nhưng suy nghĩ về sự vô thường của quyền lực hoàng gia, ông đã nhường vinh dự đó cho Anathapindika. Ngay khi hạt giống chạm đất, một sự kiện kỳ diệu đã xảy ra trước mắt tất cả mọi người. Ngay lập tức, một cây bồ đề non mọc lên, vươn cao và xòe những cành lớn ra mọi hướng. Cây đứng sừng sững, giống như một vị chúa tể của khu rừng. Sau đó, nhà vua đã dành sự tôn kính tuyệt vời cho cây bồ đề. Ông đổ nước thơm từ hàng trăm bình vàng và bạc, trang trí khu vực xung quanh bằng hoa sen, xây dựng một bức tường và cổng bằng vật liệu quý giá, và đặt một chiếc ghế nạm ngọc gần đó. Vì vậy, cây bồ đề đã nhận được sự tôn kính sâu sắc.
Sau này, Ananda thỉnh cầu Đức Phật sử dụng cây bồ đề mới trồng để thiền định, vì lợi ích của chúng sinh. Mặc dù Đức Phật giải thích rằng chỉ có cây Bồ đề nguyên thủy mới có thể hỗ trợ hoàn toàn cho sự giác ngộ tối thượng, nhưng Ngài vẫn dành một đêm dưới gốc cây bồ đề của Ananda, chìm đắm trong trạng thái thiền định. Sự kiện này được thông báo cho người dân và được gọi là Lễ hội Bồ đề. Từ đó trở đi, cây bồ đề này được gọi là cây Bồ đề của Ananda.
Khi các vị sư sau đó thảo luận về sự kiện này trong Đại điện Chân lý, ca ngợi ảnh hưởng tâm linh và lòng sùng kính của Ananda, Đức Phật giải thích rằng đây không phải là lần đầu tiên Ananda truyền cảm hứng cho sự tôn kính rộng rãi đối với cây bồ đề. Sau đó, Ngài kể một câu chuyện từ thời xa xưa.
Vào thời cổ đại, tại vương quốc Kalinga, một vị vua tên là Kalinga trị vì ở thành phố Dantapura. Ông có hai người con trai, người con cả được định sẵn sẽ thừa kế ngai vàng, và người con út được tiên tri sẽ sống như một đạo sĩ mà con trai của ông sẽ trở thành một vị vua toàn năng. Sau khi nhà vua qua đời, người con cả lên ngôi, trong khi người con út trở thành phó vương. Tự hào về lời tiên tri về con trai tương lai của mình, vị hoàng tử trẻ trở nên kiêu ngạo, khiến nhà vua ra lệnh bắt giữ ông. Được báo trước, hoàng tử bỏ trốn vào rừng, mang theo ba vật phẩm hoàng gia: một chiếc nhẫn ấn, một tấm thảm quý và một thanh kiếm. Ở đó, ông sống như một đạo sĩ bên bờ sông.
Ở một vương quốc khác, vua của Madda có một người con gái cũng được tiên tri định sẵn sẽ sống như một đạo sĩ mà con trai của bà sẽ trở thành một vị vua toàn năng. Để bảo vệ con gái khỏi các vị vua đối địch muốn cầu hôn, cha mẹ bà đã cùng bà bỏ trốn vào rừng và sống ở thượng nguồn sông, phía trên nơi vị hoàng tử đạo sĩ đang sống. Qua một cuộc gặp gỡ tình cờ được tượng trưng bằng một vòng hoa ném xuống sông, hoàng tử và công chúa gặp nhau và kết duyên. Với sự đồng ý của cha mẹ công chúa, họ sống cùng nhau trong rừng, và một người con trai được sinh ra, mang những dấu hiệu của sự vĩ đại.
Đứa trẻ lớn lên học tất cả các nghệ thuật và kỹ năng dưới sự hướng dẫn của cha và ông nội. Khi thời cơ chín muồi, cha cậu gửi cậu trở về để giành lại ngai vàng của Kalinga, hướng dẫn cậu sử dụng ba vật phẩm hoàng gia để tiết lộ thân phận của mình. Nhờ công đức của mình, chàng trai trẻ đến được thành phố, được nhận ra và được lên ngôi. Theo thời gian, ông trở thành một vị vua toàn năng, nhận được các biểu tượng thiêng liêng của quyền lực tối cao và cai trị toàn thế giới một cách công bằng.
Một ngày nọ, cùng với một đoàn tùy tùng đông đảo và cưỡi trên một con voi hùng vĩ, nhà vua lên đường đến thăm cha mẹ mình. Khi đến khu vực của cây bồ đề vĩ đại, được tôn kính như trung tâm của trái đất và là nơi giác ngộ của tất cả các vị Phật, con voi của ông không thể tiến thêm nữa. Cho dù bị thúc giục thế nào, nó cũng không thể vượt qua ranh giới thiêng liêng đó. Vị giáo sĩ của nhà vua xuống xem xét nơi đó và nhận ra sự linh thiêng độc đáo của nó, hiểu rằng không một sinh vật nào, dù quyền năng đến đâu, có thể vượt qua vùng đất ấy.
Sau khi nhận ra sự linh thiêng của khu vực cây bồ đề, nhà vua xuống ngựa và bày tỏ lòng tôn kính. Sau đó, ông ra lệnh tổ chức một lễ cúng bái long trọng, truyền lệnh mang đến số lượng lớn vòng hoa thơm và dâng lễ vật trong bảy ngày xung quanh khu vực linh thiêng đó. Sau khi tôn kính cây bồ đề theo cách này, ông đến thăm cha mẹ, trở về kinh đô cùng họ, cai trị bằng lòng nhân từ và công chính, và cuối cùng được tái sinh ở cõi trời Ba mươi ba.
Sau khi kết thúc câu chuyện, Đức Phật giải thích rằng Ananda chính là vua Kalinga trong kiếp trước, và chính Ngài là Kalinga-bharadvaja, vị giáo sĩ thông thái. Như vậy, Đức Phật khẳng định rằng lòng sùng kính của Ananda đối với cây bồ đề không phải là điều mới mẻ, mà là sự tiếp nối của một việc làm tốt đẹp đã được vun trồng qua nhiều kiếp sống.
.... o ....
J479. Kalinga-Bodhi Jātaka -- Elder Ānanda requested to plant a Bodhi tree in Jetavana.
Summary: The devotees at Sāvatthi desire a sign left by the Buddha when he departs on his teaching tour. Elder Ānanda obtains permission to have a Bodhi tree planted in Jetavana and for the Buddha to sit beneath it for one night. The Buddha then recounts a story from a previous life, when, as a Universal Monarch, Ānanda discovered the site of the Bodhi tree and worshipped there.
.
This story was told by the Buddha while he was dwelling at Jetavana, concerning the worship of the bo-tree performed by the Elder Ananda.
When the Tathagata set out on pilgrimage to gather those ready for liberation, the people of Savatthi came to Jetavana carrying garlands and fragrant wreaths. Finding no object of devotion in the monastery during the Buddha’s absence, they laid their offerings at the gateway of the Perfumed Chamber and departed. This spontaneous act of reverence caused great joy among the people. When Anathapindika learned of this, he reflected that while the Buddha traveled, the monastery was left without a focus for public devotion. He therefore approached the Elder Ananda and asked him to consult the Buddha on whether a suitable place of worship might be established for the benefit of the faithful.
Ananda conveyed the matter to the Buddha, who explained that while shrines containing bodily relics could only be established after a Buddha’s passing, and memorial shrines depended merely on imagination, the great bo-tree under which Buddhas attain awakening was suitable for worship whether a Buddha was living or had passed away. He therefore approved Ananda’s proposal to plant a bo-tree at the entrance to Jetavana as a lasting object of reverence.
Ananda informed Anathapindika, Visakha, and the king of Kosala, and preparations were made. A pit was cleared at the gateway of Jetavana, and the Elder Moggallana was asked to obtain a fruit from the great bo-tree. By his spiritual power, Moggallana traveled through the air, retrieved a fruit as it was falling from the sacred tree, and brought it back to Ananda. The king of Kosala was notified, and that evening he arrived with a great assembly, accompanied by Anathapindika, Visakha, and a large gathering of devoted lay followers.
A golden jar filled with earth moistened by fragrant water was prepared at the planting site. The king was invited to plant the seed, but reflecting on the impermanence of royal power, he deferred the honor to Anathapindika. As soon as the seed touched the earth, a miraculous event occurred before the eyes of all present. Instantly, a bo-tree sapling sprang forth, rising to a great height and spreading massive branches in all directions. The tree stood fully formed, like a lord of the forest.
The king then paid magnificent honor to the tree. He poured scented water from hundreds of golden and silver vessels, adorned the site with water lilies, constructed a surrounding wall and gatehouse of precious materials, and set up a jeweled seat nearby. Thus the bo-tree received profound veneration.
Later, Ananda requested that the Buddha make use of the newly planted tree for meditative attainment, for the benefit of the people. Although the Buddha explained that only the original Bodhi Tree could fully support the supreme attainment of enlightenment, he nevertheless spent one night beneath Ananda’s bo-tree absorbed in meditative rapture. The event was announced to the people and became known as the Bo Festival. From that time onward, the tree was called Ananda’s Bo-tree.
When the monks later discussed this event in the Hall of Truth, praising Ananda’s spiritual influence and devotion, the Buddha explained that this was not the first time Ananda had inspired widespread reverence toward the bo-tree. He then related a story from the distant past.
In ancient times, in the kingdom of Kalinga, a king named Kalinga ruled in the city of Dantapura. He had two sons, the elder destined to inherit the throne, and the younger foretold to live as an ascetic whose son would become a universal monarch. After the king’s death, the elder ascended the throne, while the younger became viceroy. Proud of the prophecy concerning his future son, the younger prince became arrogant, causing the king to order his arrest. Forewarned, the prince fled into the forest, carrying with him three royal tokens: a signet ring, a fine rug, and a sword. There he lived as an ascetic by a river.
In another kingdom, the king of Madda had a daughter similarly destined to live as an ascetic whose son would become a universal monarch. To protect her from rival kings seeking her hand, her parents fled with her into the forest and lived upstream from the ascetic prince. Through a chance encounter symbolized by a flower garland cast into the river, the prince and the princess met and formed a union. With the consent of her parents, they lived together in the forest, and a son was born to them, marked by signs of greatness.
The child grew up learning all arts and accomplishments under the guidance of his father and grandfather. When the time was right, his father sent him to reclaim the throne of Kalinga, instructing him to use the three royal tokens to reveal his identity. By virtue of his merit, the young man reached the city, was recognized, and was enthroned. In time, he became a universal monarch, receiving the sacred emblems of sovereignty and ruling the entire world righteously.
One day, accompanied by a vast retinue and mounted on a magnificent elephant, the king set out to visit his parents. When he reached the precinct of the great bo-tree, revered as the central point of the earth and the seat of awakening of all Buddhas, his elephant could proceed no further. No matter how it was urged, it could not pass beyond the sacred boundary. The king’s chaplain descended to examine the place and perceived its unique sanctity, understanding that no being, however powerful, could cross that ground.
Upon recognizing the holiness of the bo-tree precinct, the king dismounted and paid reverence. He then ordered a great celebration of worship, commanding that vast quantities of fragrant wreaths be brought and offerings made for seven days around the sacred circuit. After honoring the bo-tree in this manner, he visited his parents, returned with them to his capital, ruled with generosity and righteousness, and was eventually reborn in the Heaven of the Thirty-Three.
Having concluded the story, the Buddha explained that Ananda had been King Kalinga in that former life, and that he himself had been Kalinga-bharadvaja, the wise chaplain. Thus, the Buddha affirmed that Ananda’s devotion to the bo-tree was not new, but the continuation of a wholesome practice cultivated across many lifetimes.
.... o ....
J480. Akitta Jātaka -- Hãy luôn vui vẻ khi bố thí, cúng dường mà không hối tiếc.
Tóm tắt: Một người cư sĩ dâng cúng những lễ vật hào phóng cho Tăng đoàn và được Đức Phật cảm ơn. Sau đó, Đức Phật kể một câu chuyện về một vị vua từ bỏ vương quốc của mình, cuối cùng lui về sống trên một hòn đảo hoang vắng và chỉ ăn lá cây và hoa. Khi thần Sakka đến cải trang thành một vị Bà-la-môn, vị vua vẫn dâng tặng tất cả thức ăn của mình cho ông ta và sống nhờ niềm vui mà ông cảm nhận được khi cho đi.
.
Câu chuyện này được Đức Phật kể khi ngài đang trú ngụ tại Jetavana, về một người thí chủ hào phóng sống ở Savatthi.
Ngày xưa, ở Savatthi có một cư sĩ mộ đạo đã mời Đức Phật đến nhà và trong bảy ngày đã dâng cúng những lễ vật phong phú cho Đức Phật và cộng đồng chư tăng đi cùng ngài. Vào ngày cuối cùng, ông đã dâng tặng toàn bộ hội chúng Thánh nhân tất cả những vật dụng cần thiết cho cuộc sống của họ. Khi Đức Phật bày tỏ lòng biết ơn và ca ngợi sự hào phóng tuyệt vời của ông, ông giải thích rằng việc bố thí như vậy là một truyền thống của những người hiền triết thời xưa. Ngay cả những vị hiền triết đã từ bỏ thế tục và sống trong rừng, chỉ ăn những thức ăn đơn giản nhất, cũng chưa bao giờ ngừng bố thí cho những người nghèo khó, mà thay vào đó, họ tự nuôi dưỡng bản thân bằng niềm vui và sự thanh tịnh sinh ra từ lòng hào phóng. Người cư sĩ, muốn hiểu sâu hơn về giáo lý này, đã hỏi thêm, và Đức Phật đã đáp lại bằng cách kể một câu chuyện từ quá khứ.
Vào thời xa xưa, khi Brahmadatta trị vì làm vua ở Benares, Bồ Tát được sinh ra trong gia đình một vị Bà la môn giàu có với tài sản lên đến tám mươi triệu đồng vàng. Ngài được đặt tên là Akitti. Khi còn nhỏ, ngài có một người em gái tên là Yasavati. Năm mười sáu tuổi, Akitti đến Benares để hoàn thành việc học và sau đó trở về nhà. Sau khi cha mẹ qua đời, ngài đã thực hiện các nghi lễ truyền thống cho người đã khuất và sau đó xem xét kho báu của gia đình. Khi xem xét các ghi chép cho thấy những người chủ cũ của khối tài sản khổng lồ đều đã chết và để lại của cải, ngài suy ngẫm sâu sắc về sự vô thường và quyết tâm rằng trong khi những người khác ra đi tay trắng, ngài sẽ mang theo tài sản của mình dưới dạng công đức.
Akitti giao phó kho báu cho em gái và tuyên bố ý định từ bỏ cuộc sống thế tục. Khi em gái từ chối nhận trách nhiệm về khối tài sản mà ngài đã từ bỏ và thay vào đó chọn trở thành một người tu khổ hạnh, Akitti đã xin phép nhà vua và cho người rao truyền khắp thành phố mời bất cứ ai cần giúp đỡ hãy đến nhận bố thí. Trong bảy ngày, ngài đã phân phát một lượng lớn của cải, nhưng kho báu không hề giảm bớt. Cuối cùng, nhận ra sự vô ích của việc bám chấp vào của cải, ngài đã mở cửa nhà hoàn toàn cho công chúng, cho phép bất cứ ai cũng có thể lấy những gì họ muốn. Bỏ lại nhà cửa, vàng bạc và tài sản, ngài cùng em gái ra đi, trong khi người thân khóc lóc. Cổng thành và bến sông nơi họ khởi hành sau này được đặt theo tên ông.
Sau khi đi được ba dặm, Akitti và em gái dừng chân ở một nơi dễ chịu và dựng một túp lều bằng lá và cành cây, sống ở đó như những người tu khổ hạnh. Được truyền cảm hứng từ sự từ bỏ thế tục của ông, nhiều người khác cũng từ bỏ cuộc sống trần tục, tạo thành một cộng đồng lớn xung quanh ông và dành cho ông sự tôn kính và những món quà quý giá. Thấy rằng danh tiếng và sự giàu có vẫn theo đuổi mình ngay cả trong sự cô lập, Akitti nhận thấy rằng sự cô độc phù hợp hơn với việc tu hành của mình. Không báo trước cho cả em gái, ông lặng lẽ rời đi một mình và đến vương quốc Damila, nơi ông sống gần Kavirapattana và tu luyện thiền định sâu sắc và các năng lực siêu nhiên. Khi sự tôn kính và những món quà lại tích lũy xung quanh ông, ông cũng từ bỏ nơi đó.
Bay qua không trung bằng sức mạnh tâm linh của mình, Akitti đến đảo Kara, còn được gọi là Đảo Rắn. Ở đó, ông xây dựng một am thất đơn độc bên cạnh một cây kara lớn và sống ẩn dật. Chỉ ăn lá và quả của cây, ông sống một cách mãn nguyện, được nuôi dưỡng bởi niềm vui nội tâm chứ không phải thức ăn vật chất. Đức hạnh của ông trở nên mạnh mẽ đến nỗi khiến ngai vàng của Sakka, vua của các vị thần, trở nên nóng bỏng, báo hiệu sự hiện diện của một vị tu sĩ có sự thanh tịnh phi thường.
Điều tra nguyên nhân, Sakka nhận ra Akitti và quyết định thử thách ông. Hóa trang thành một người ăn xin Bà La Môn, Sakka đến gần am thất. Akitti, người đã chuẩn bị một bữa ăn đơn giản bằng lá cây kara, vui mừng khi thấy một người ăn xin và ngay lập tức dâng toàn bộ phần thức ăn đó làm bố thí, không giữ lại gì cho mình. Ông lại làm như vậy vào ngày hôm sau, và lại vào ngày thứ ba, mỗi lần đều cho đi tất cả thức ăn của mình mà không chút do dự hay hối tiếc. Mặc dù suy yếu vì đói, Akitti vẫn vui vẻ, suy ngẫm về công đức của việc bố thí chứ không phải về sự khó chịu của cơ thể.
Thấy vậy, Sakka nhận ra rằng lòng hào phóng của Akitti không phải do ham muốn quyền lực hay tái sinh mà là do khát vọng chân thành hướng tới trí tuệ tối thượng và giải thoát khỏi khổ đau. Tiết lộ hình dạng thần thánh của mình, Sakka đề nghị Akitti cơ hội nhận được phước lành. Tuy nhiên, Akitti từ chối những phước lành trần tục như giàu có, gia đình hay quyền lực, mà chỉ xin được thoát khỏi sự ràng buộc. Ông yêu cầu rằng ông không gặp gỡ những kẻ ngu ngốc hoặc kết giao với họ, mà sống giữa những người khôn ngoan, tu dưỡng đức hạnh và sự hiểu biết. Ông cũng ước nguyện rằng mỗi ngày sẽ có những vị tu sĩ thánh thiện xuất hiện để ông có thể tiếp tục bố thí, rằng lòng hào phóng của ông sẽ không bao giờ làm giảm bớt tài sản của ông, và rằng trái tim ông sẽ luôn vui mừng khi cho đi mà không hối tiếc.
Cuối cùng, Akitti yêu cầu Sakka không xuất hiện trước mặt ông nữa, vì sợ rằng vẻ huy hoàng của thần thánh có thể làm ông xao nhãng khỏi lời thề của mình. Tôn trọng ước nguyện này, Sakka rời đi, vô cùng hài lòng với sự quyết tâm của vị khổ hạnh.
Sau đó, Akitti dành phần đời còn lại của mình trong sự cô độc, hoàn thiện những đức tính tâm linh. Khi kết thúc cuộc đời, ông được tái sinh vào cõi Brahma.
Sau khi hoàn thành bài thuyết pháp này, Đức Phật đã xác định các nhân vật trong câu chuyện, giải thích rằng Anuruddha chính là Sakka trong kiếp trước đó, và chính Ngài là vị khổ hạnh Akitti thông thái.
.... o ....
J480. Akitta Jātaka -- Always rejoice in giving without regret.
Summary: A layman makes generous offerings to the Saṅgha and is thanked by the Buddha, who then tells a story about a king who gave up his kingdom, eventually retired to a lonely island, and lived on leaves and flowers. When Sakka came disguised as a brahmin, the king still offered him all his food and lived on the joy he felt in giving.
.
This story was told by the Buddha while he was dwelling at Jetavana, concerning a generous donor who lived in Savatthi.
There once lived in Savatthi a devoted layman who invited the Buddha to his house and for seven days offered abundant gifts to the Blessed One and the community of monks who accompanied him. On the final day, he presented the entire assembly of Saints with all the requisites necessary for their lives. When the Buddha expressed gratitude and praised the greatness of his generosity, he explained that such giving was a practice of the wise in ancient times. Even sages who had renounced the world and lived in the forest, subsisting on the simplest food, had never ceased to give to those in need, sustaining themselves instead on the joy and purity born of generosity. The layman, wishing to understand this teaching more deeply, asked for clarification, and the Buddha responded by recounting a story from the past.
In a former age, when Brahmadatta ruled as king in Benares, the Bodhisatta was born into the family of a wealthy brahmin whose fortune amounted to eighty crores. He was named Akitti. When he was still young, a sister was born to him, and she was named Yasavati. At the age of sixteen, Akitti went to Benares to complete his education and later returned home. After the deaths of his parents, he carried out the customary rites for the departed and then examined the family treasure. As he reviewed records showing how former owners of great wealth had all died and left their riches behind, he reflected deeply on impermanence and resolved that while others had departed empty-handed, he would carry his wealth with him in the form of merit.
Akitti entrusted the treasure to his sister and declared his intention to renounce worldly life. When his sister refused to take responsibility for wealth he had renounced and instead chose to become an ascetic herself, Akitti sought permission from the king and had a proclamation made throughout the city inviting anyone in need to come and receive alms. For seven days he distributed vast quantities of wealth, yet the treasure did not diminish. Finally, recognizing the futility of attachment to riches, he opened his house completely to the public, allowing anyone to take what they wished. Leaving behind his home, gold, and possessions, he departed with his sister, while his relatives wept. The city gate and river landing from which they left came to be known by his name.
After traveling three leagues, Akitti and his sister settled in a pleasant spot and built a hut of leaves and branches, living there as ascetics. Inspired by his renunciation, many others also abandoned worldly life, forming a large community around him and offering him great honor and gifts. Seeing that fame and abundance followed him even in seclusion, Akitti reflected that solitude was more fitting for his practice. Without warning even his sister, he quietly departed alone and traveled to the kingdom of Damila, where he lived near Kavirapattana and cultivated deep meditative absorption and supernormal powers. When honor and gifts again accumulated around him, he abandoned that place as well.
Passing through the air by his spiritual power, Akitti reached the island of Kara, also known as the Isle of Snakes. There he built a solitary hermitage beside a great kara-tree and lived unknown to the world. Sustaining himself solely on the tree’s leaves and fruit, he lived contentedly, nourished by inner joy rather than material food. His virtue became so powerful that it caused the throne of Sakka, king of the gods, to grow hot, signaling the presence of an ascetic of extraordinary purity.
Investigating the cause, Sakka perceived Akitti and resolved to test him. Disguised as a brahmin beggar, Sakka approached the hermitage. Akitti, who had prepared a simple meal of kara-leaves, rejoiced at the sight of a beggar and immediately offered the entire portion as alms, leaving nothing for himself. He did so again on the following day, and again on the third day, each time giving away all his food without hesitation or regret. Though weakened by hunger, Akitti remained joyful, reflecting on the merit of giving rather than on bodily discomfort.
Seeing this, Sakka realized that Akitti’s generosity was not motivated by desire for power or rebirth but by a sincere aspiration toward supreme wisdom and liberation from suffering. Revealing his divine form, Sakka offered Akitti the opportunity to receive blessings. Akitti, however, declined worldly boons such as wealth, family, or authority, asking instead to remain free from attachment. He requested that he not encounter fools or associate with them, but rather live among the wise, cultivating virtue and understanding. He also wished that holy mendicants might appear each day so that he could continue giving alms, that his generosity would never diminish his resources, and that his heart would always rejoice in giving without regret.
Finally, Akitti asked that Sakka not appear before him again, fearing that divine splendor might distract him from his vows. Respecting this wish, Sakka departed, deeply pleased by the ascetic’s resolve.
Akitti then spent the remainder of his life in solitude, perfecting the spiritual perfections. At the end of his life, he was reborn in the Brahma world.
After completing this discourse, the Buddha identified the characters of the story, explaining that Anuruddha had been Sakka in that former life, and that he himself had been the wise ascetic Akitti.
.... o ....
.