Sự tích lễ Vu Lan

Đã đọc: 3833           Cỡ chữ: Decrease font Enlarge font
image

Trong hàng Thánh chúng, ngài Mục-kiền-liên không những là vị Tôn giả thần thông số một, bản tánh năng động mà còn là một vị có hiếu đạo bậc nhất. Sau khi đắc quả A-la-hán nhớ đến công lao sinh thành của mẹ ngài liền vận dụng thần thông đi khắp trên trời dưới đất để tìm mẹ. Khi vào địa ngục, Mục-kiền-liên thấy mẹ bị đọa làm quỷ đói, thân hình tiều tụy đói ăn khát uống. Thương mẹ một tay ngài gạt nước mắt một tay làm phép dâng cơm cho mẹ. Mừng quá, nhưng vì tánh bỏn xẻn bà Thanh-đề dùng tay trái che bát giấu kẻ khác, tay phải bốc cơm đưa vào miệng. Nhưng cơm vừa tới miệng đã hóa thành lửa đỏ, bà không thể nào ăn được. Mục-kiền-liên rơi nước mắt, lòng buồn vô tận! Ngài vận đủ mọi phương tiện để cứu mẹ, nhưng mọi phép thần thông vẫn không có kết quả.

Mỗi năm đến Rằm tháng Bảy không riêng gì người con Phật mà hầu như mọi người đều thiết lễ hội Vu Lan tức Ullambana để báo đền ân đức dưỡng dục sinh thành của đấng song thân. Nói tới lễ hội Vu Lan là nói tới bản hạnh hiếu để của Tôn giả Mục Kiền Liên. Ngài là nhân vật có thật trong lịch sử sinh cùng thời với Đức Phật Shākyamuni. Tên thật của ngài là Kolitha Moggallana.

Theo các sách sử Phật giáo thì Mục-kiền-liên chào đời tại một ngôi làng nhỏ gần kinh đô Patna của vương quốc Magadha, nay thuộc tiểu bang Bihar, Ấn Độ. Ông được cho là thuộc dòng dõi Mudgala, tức là "Thiên văn gia". Tầng lớp Mudgala thuộc giai cấp quý tộc, được tôn kính và giàu có, vì vậy Mục Kiền Liên từ nhỏ đã sống trong nhung lụa, không thiếu thốn bất cứ món gì và được hưởng một nền giáo dục hoàn chỉnh theo truyền thống Bà la môn giáo.

Tuy nhiên, trong một lần cùng người bạn Upatissa (sau này là Tôn giả Xá Lợi Phất) dự hội "Hội Sơn Thần", ông chợt ngộ ra và tâm tưởng về Tử Biệt Sinh Ly giữa cuộc đời. Từ đó, hai người quyết định tìm đường Giải thoát, sống đời Đạo sĩ, thoát ly gia đình, dứt bỏ mọi sự buộc ràng của giai cấp của Bà la môn.

Trên bước đường cầu đạo, ông cùng Xá-lợi-phất đã thỉnh giáo nhiều đạo sĩ cao nhân, tiếp thu nhiều tư tưởng triết học khác nhau. Tuy nhiên, cả 2 đều sớm nhận ra những khiếm khuyết của các giáo thuyết, vì vậy cả 2 tiếp tục tìm kiếm. Một lần khi ra phố, Xá-lợi-phất vô tình gặp Tôn giả Assaji (Mã Thắng), một trong 5 vị đệ tử đầu tiên của Đức Phật Shākyamuni. Được Assaji khai ngộ về Tứ diệu đế, Xá-lợi-phất liền đắc Pháp nhãn (Dhamma Cakkhu) chứng quả Nhập Lưu - Tu Ðà Hườn (Sotàpatti). Sau khi về nơi trọ, ông thuật lại cho Mục-kiền-liên nghe. Cũng như Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên nhanh chóng giác ngộ đạo giải thoát nhờ vào khai thị của Tôn giả Assaji. Từ đó, 2 ông gia nhập Tăng đoàn và trở thành một trong những Thánh chúng nổi bật nhất được ghi nhận trong Lịch sử Phật giáo.

Trong hàng Thánh chúng, ngài Mục-kiền-liên không những là vị Tôn giả thần thông số một, bản tánh năng động mà còn là một vị có hiếu đạo bậc nhất. Sau khi đắc quả A-la-hán nhớ đến công lao sinh thành của mẹ ngài liền vận dụng thần thông đi khắp trên trời dưới đất để tìm mẹ. Khi vào địa ngục, Mục-kiền-liên thấy mẹ bị đọa làm quỷ đói, thân hình tiều tụy đói ăn khát uống. Thương mẹ một tay ngài gạt nước mắt một tay làm phép dâng cơm cho mẹ. Mừng quá, nhưng vì tánh bỏn xẻn bà Thanh-đề dùng tay trái che bát giấu kẻ khác, tay phải bốc cơm đưa vào miệng. Nhưng cơm vừa tới miệng đã hóa thành lửa đỏ, bà không thể nào ăn được. Mục-kiền-liên rơi nước mắt, lòng buồn vô tận! Ngài vận đủ mọi phương tiện để cứu mẹ, nhưng mọi phép thần thông vẫn không có kết quả.

Ngài trở về bạch Phật sự tình và hỏi lý do. Đức Phật từ bi dạy rằng:

– Này Mục-kiền-liên, lúc sanh tiền mẹ ông đã hủy Phật báng Tăng, không tin nhân quả luân hồi, lại rất bỏn xẻn, chẳng bao giờ bố thí cho ai, kể cả 1 hạt hạt gạo cho con kiến cũng không. Vì thế, sau khi chết bà phải chịu quả báo như thế. Ông tuy là con người hiếu đạo, thương cha nhớ mẹ, muốn đền đáp thâm ân, nhưng sức của ông có hạn. Dù có thần thông, một mình ông cũng không thể giải cứu nghiệp lực cho mẹ. Ông hãy đợi đến Rằm tháng Bảy, ngày chư Phật hoan hỷ, chư Tăng thanh tịnh sau 3 tháng an cư kiết hạ, thiết lễ Vu Lan nhờ sức chư đại Tăng cùng chú nguyện thì mẹ ông mới thoát khỏi được cảnh địa ngục.

Theo như lời Phật dạy, ngày Rằm tháng Bảy, ngài Mục-kiền-liên thiết lập trai đàn dâng cúng dường mười phương Tăng chúng, cầu hùng lực đại Từ đại Bi của chư đại Tăng chú nguyện. Với đạo nghiệp thanh tịnh tấn tu trong 3 tháng hạ, nguyện lực của chư Tăng không những cứu giúp cho bà Thanh-đề mà còn nhiều người khác trong ngày đó cũng được thoát khỏi cảnh địa ngục tối tăm.

Kinh Vu Lan, lễ Vu Lan có từ đó. Tên gọi Vu Lan Bồn (Ullambana) có nghĩa là “cứu cái khổ bị treo ngược”.

Chân Minh sưu tập.

 

Phật nói Kinh Vu Lan Bồn

Ta từng nghe lời tạc như vầy:

1. Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ
Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung,
Mục-liên mới đặng lục-thông,
Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.

Công dưỡng-dục thâm-ân dốc trả,
Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền,
Làm con hiếu-hạnh vi tiên,
Bèn dùng huệ-nhãn dưới trên kiếm tầm.

Thấy vong-mẫu sanh làm ngạ-quỷ,
Không uống ăn tiều-tụy hình-hài.
Mục-liên thấy vậy bi-ai,
Biết mẹ đói khát ai-hoài tình thâm.

2. Lo phẩm-vật đem dâng từ-mẫu,
Ðặng đỡ lòng cực khổ bấy lâu.
Thấy cơm mẹ rất lo âu,
Tay tả che đậy, hữu hầu bốc ăn.
Lòng bỏn-xẻn tiền-căn chưa dứt,
Sợ chúng ma cướp dựt của bà.
Cơm đưa chưa tới miệng đà,
Hóa thành than lửa nuốt mà đặng đâu.

Thấy như vậy âu-sầu thê-thảm,
Mục-kiền-liên bi-cảm xót thương,
Mau mau về đến giảng-đường,
Bạch cùng sư-phụ tìm phương giải nàn.

3. Phật mới bảo rõ ràng căn-cội,
Rằng mẹ ông gốc tội rất sâu.
Dầu ông thần-lực nhiệm-mầu,
Một mình không thể ai cầu được đâu.
Lòng hiếu-thảo của ông dầu lớn,
Tiếng vang đồn thấu đến cửu-thiên
Cùng là các bực Thần-kỳ
Tà, ma, ngoại-đạo, bốn vì Thiên-vương

Cộng ba cõi sáu phương tu-tập,
Cũng không phương cứu-tế mẹ ngươị
Muốn cho cứu đặng mạng người,
Phải nhờ thần-lực của mười phương Tăng.

4. Pháp cứu-tế ta toan giải nói
Cho mọi người thoát khỏi ách-nàn
Bèn kêu Mục-thị đến gần,
Truyền cho diệu-pháp ân-cần thiết thi
Rằm tháng bảy là ngày Tự-tứ
Mười phương Tăng đều dự lễ này
Phải toan sắm sửa chớ chầy
Thức ăn trăm món trái cây năm màu

Lại phải sắm giường nằm nệm lót
Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang, dầu,
Món ăn tinh-sạch báu mầu
Ðựng trong bình-bát vọng-cầu kính dâng

Chư Ðại-đức mười phương thọ-thực
Trong bảy đời sẽ đặng siêu thiên
Lại thêm cha mẹ hiện-tiền
Ðặng nhờ phước-lực tiêu-khiên ách-nàn.

5. Vì ngày ấy Thánh-tăng đều đủ
Dầu ở đâu cũng tụ-hội về.
Như người Thiền-định sơn-khê
Tránh điều phiền-não chăm về thiền-na
Hoặc người đặng bốn tòa đạo quả
Công tu-hành nguyện thỏa vô-sanh
Hoặc người thọ hạ kinh-hành
Chẳng ham quyền-quý ẩn-danh lâm-tòng

Hoặc người đặng lục-thông tấn-phát
Và những hàng Duyên-giác, Thanh-văn
Hoặc chư Bồ-tát mười phương
Hiện hình làm sãi ở gần chúng-sanh

Ðều trì giới rất thanh, rất tịnh
Ðạo-đức dày, chánh-định chơn-tâm
Tất cả các bực Thánh, Phàm
Ðồng lòng thọ-lãnh bát cơm lục-hòa

6. Người nào có sắm ra vật-thực
Ðặng cúng-dường Tự-tứ Tăng thời
Hiện-tiền phụ-mẫu của người
Bà con quyến-thuộc thảy đều nhờ ơn
Tam-đồ khổ chắc rằng ra khỏi
Cảnh thanh-nhàn hưởng-thọ tự-nhiên.
Như còn cha mẹ hiện-tiền
Ðó nhờ cũng đặng bá niên thọ-trường

Như cha mẹ bảy đời quá-vãng
Sẽ hóa-sanh về cõi thiên-cung
Người thời tuấn-tú hình-dung
Hào-quang chiếu sáng khắp cùng châu-thân

7. Phật dạy bảo mười phương Tăng-chúng
Phải tuân theo thể-thức sau này:
Trước khi thọ thực đàn chay
Phải cầu chú-nguyện cho người tín-gia.
Cầu thất-thế mẹ cha thí-chủ
Ðịnh tâm-thần quán đủ đừng quên
Cho xong ý-định hành-thiền
Mới dùng phẩm-vật đàn-tiền hiến-dâng.

Khi thọ-dụng nên an vật-thực
Trước Phật-đài hoặc tự tháp trung:
Chư Tăng chú nguyện viên dung
Sau rồi tự-tiện thọ dùng bữa trưa

8. Pháp cứu-tế Phật vừa nói dứt
Mục-liên cùng Bồ-tát chư Tăng
Ðồng nhau tỏ dạ vui mừng
Mục-liên cũng hết khóc thương rầu buồn
Mục-liên mẫu cũng trong ngày ấy
Kiếp khổ về ngạ-quỷ được tan
Mục-liên bạch với Phật rằng:
"Mẹ con nhờ sức Thánh-Tăng khỏi nàn

Lại cũng nhờ oai thần Tam-bảo
Bằng chẳng thì nạn khổ khó ra
Như sau đệ-tử xuất-gia
Vu-lan-bồn pháp dùng mà độ sanh

Ðộ cha mẹ còn đương tại thế
Hoặc bảy đời có thể đặng không ?"
Phật rằng: "Lời hỏi rất thông
Ta vừa muốn nói con dùng hỏi theo

9. Thiện-nam-tử, tỳ-kheo nam nữ
Cùng quốc-vương, thái-tử, đại-thần
Tam-công, tể-tướng, bá-quan
Cùng hàng lê-thứ vạn dân cõi trần
Như chí muốn đền ơn cha mẹ
Hiện-tại cùng thất-thế tình thâm
Ðến rằm tháng bảy mỗi năm
Sau khi kiết-hạ chư Tăng tựu về

Chính ngày ấy Phật đà hoan-hỉ
Phải sắm sanh bá vị cơm canh
Ðựng trong bình-bát tinh-anh
Chờ giờ Tự-tứ chúng Tăng cúng-dường

Ðặng cầu-nguyện song-đường trường-thọ
Chẳng ốm đau, cũng chẳng khổ chi
Cùng cầu thất-thế đồng thì
Lìa nơi ngạ-quỷ sanh về nhơn, thiên

Ðặng hưởng phước nhân duyên vui đẹp
Lại xa lìa nạn khổ cực thân
Môn-sanh Phật-tử ân-cần
Hạnh tu hiếu-thuận phải cần phải chuyên

10. Thường cầu-nguyện thung-huyên an-hảo
Cùng bảy đời phụ-mẫu siêu-sanh
Ngày rằm tháng bảy mỗi năm
Vì lòng hiếu-thảo thâm-ân phải đền
Lễ cứu-tế chí-thành sắp đặt
Ngỏ cúng-dường chư Phật chư Tăng
Ấy là báo đáp thù ân
Sanh-thành dưỡng-dục song-thân buổi đầu

Ðệ-tử Phật lo âu gìn-giữ
Mới phải là Thích-tử Thiền-môn
Vừa nghe dứt pháp Lan-bồn
Môn-sanh tứ-chúng thảy đồng hỉ-hoan

Mục-liên với bốn ban Phật-tử
Nguyện một lòng tín-sự phụng-hành !

 

Đăng ký lấy RSS cho bình luận Bình luận (0 đã gửi)

tổng số: | đang hiển thị:

Gửi bình luận của bạn

  • Bold
  • Italic
  • Underline
  • Quote

Xin hãy nhập các ký tự bạn nhìn thấy ở ảnh sau:

BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)

Các bài mới :
Các bài viết khác :

Đánh giá bài viết này

5.00

Tags

Không có tags cho bài viết này

Được quan tâm nhất

Previous
Next

Đăng nhập