TP. HCM: Lễ Tiểu Tường Cố Hòa Thượng Thích Hộ Giác

Đã đọc: 2349           Cỡ chữ: Decrease font Enlarge font
image

Sáng chủ nhật, 24/11/2013 (22/10 Qúy Tị) tại chùa Pháp Quang (Quận Bình Thạnh) đã trọng thể diễn ra Lễ Tiểu Tường Cố Hòa Thượng Thích Hộ Giác.

Quang lâm chứng minh có sự hiện diện chư tôn đức giáo phẩm hệ phái phật giáo nam tông, đại diện các ban nghành sở tại, nhân dịp này - bổn tự làm lễ an vị phật lộ thiên. Sau nghi thức niêm hương tưởng niệm và cung tuyên tiểu sử cố hòa thượng Thích Hộ Giác, chư tôn đức giáo phẩm cử hành hành lễ thọ cụ túc giới đến sadi Thích Mẫn Pháp.

TIỂU SỬ

 Cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HỘ GIÁC

 

Phó Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất

Tăng Thống Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thuỷ Việt Nam Tại Hải Ngoại

Viện Chủ Tổ Đình Pháp Quang – Chùa Nam Tông – Chùa Xá Lợi Phật Đài ­– Chùa Pháp Luân.

I. THÂN THẾ:             

  Cố đại lão hòa thượng thích HỘ GIÁC, thế danh là Ngô Bửu Đạt, sinh năm 1928 tại Sa đéc nay là tỉnh Đồng Tháp, thân phụ Ngài là cụ ông Ngô Bảo Hộ  ( Tức cố đại lão hòa thượng Thiện Luật. vị đệ nhất Cao Tăng Phật Giáo Nguyên Thủy VN) thân mẫu Ngài là cụ bà Lưu Kim Phùng. Ngài sinh trưởng trong một gia đình thương nhân, gồm có hai chị em. -  bào tỷ là cố tu nữ Diệu Đính ( thế danh Lưu Kim Đính) do phương kế làm ăn sinh sống, cả gia đình Ngài sang nước bạn Campuchia lập nghiệp tại Tỉnh Praey-veng ( tức lò veng hay làng Hoa Mỹ theo cánh gọi của công đồng người Việt trú tại nơi đó)

II. XUẤT GIA TU HỌC:                    

Năm 1934, sau khi thân mẫu qua đời, thân phụ Ngài gởi trưởng nữ là Lưu Kim Đính cho người em gái ( cụ bà Ngô Thị Dần) nuôi dưỡng và dẫn Ngài cùng đến chùa PREK-RENG ( Cần Ché) xuất gia tu học, thân phụ Ngài xuất gia thọ giới Sa-di được pháp danh là Thiện Luật, còn Ngài xuất gia làm giới tử học tập kinh luật. Năm 1940 Ngài được thọ giới sa di tại chùa SRI-SAGOR và được hòa thượng tế độ ban pháp danh là Hộ Giác ( Buddha Pala) Ngài vốn có thiên bẩm thông minh xuất chúng, chịu khó, chịu học lại có dung mạo khô ngôi tuấn tú nên rất được các bậc giáo thọ sư thương mến, hết lòng truyền thụ sở học và được gởi vào trường cao đẳng phạn ngữ Pali tại Thủ đô Pnom Penh và năm 1948 Ngài Thọ Giới Đàn (Tỳ khưu) tại Bản trường và sau đó tốt nghiệp Cao Đẳng Phạn ngữ Pali với hạng ưu, kế đến Ngài đi tu nghiệp thêm tại các xứ Miến Điện – Tích Lan để hoàn thành sở học thành danh là một vị Tăng tài của Phật giáo.

III. ĐẠO NGHIỆP:                        

Từ năm 1950 đến năm 1957, Ngài thường theo Cố Đại Lão Hòa Thượng Thiện Luật Vảng Lai về VN trợ giúp Chư Tôn Thạc Đức Tăng trong phật sự mở đạo Phật Giáo Nguyên Thủy tại miền nam Nước Việt nhất là tại Sài Gòn nay TP.HCM. - Năm 1954, Ngài cùng phái đoàn Tăng Già Phật Giáo Nguyên Thủy Việt Nam tham dự Đại hội Kết tập Tam Tạng lần thứ 6 tại Miến Điện, nhờ thông tuệ văn hệ phạn ngữ Pali Ngài được tuyển thỉnh là một trong 2.500 thành viên chính thức dự phần nghe tuyên đọc Kết tập Tam Tạng. Năm 1957 Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy VN được thành lập, Ngài được suy cử đảm nhiệm chức vụ Tổng Thư Ký đầu tiên của Giáo Hội Tăng Gìa Nguyên Thuỷ Việt Nam_năm 1958 với sự ủng hộ của hãng hiệu dầu cù là Mác-Phsu và Chư Tôn Đức Cao Tăng cùng quý nam nữ Phật tử, Ngài cùng Đại Lão Hòa Thượng Thiện Luật  kiến tạo ngôi tam bảo chùa Pháp Quang và tại nơi đây, ngôi trường phật học đầu tiên của Giáo Hội Tăng Gìa Nguyên Thuỷ Việt Nam được thành lập có tên là: “ PHẬT  HỌC  VIỆN  PHÁP  QUANG  “ do Ngài làm viện trưởng, đào tạo tăng tài qua ba học vị: “ Sơ đẳng, Trung đẳng và Cao đẳng Phật học” theo truyền thống Phật Giáo Nguyên Thuỷ, học vị do trường cấp cho Tăng sinh tốt nghiệp được hội Phật giáo Thế giới (ngành giáo dục) công nhận, ngôi trường đã đào tạo biết bao Tăng tài phục vụ cho sự nghiệp phát triển Phật Giáo Nguyên Thủy nhất là sự nghiệp hoằng dương chánh pháp, các Hòa Thượng Thượng Tọa hiện nay như: HT Pãnnõ, HT Tịnh Giác, HT Minh Giác, HT Thiện Nhân, TT Bửu Chánh, TT Giác Trí… đều xuất thân từ ngôi trường này.

Năm 1963 với chính sách kì thị tôn giáo của chế độ Gia Đình trị của  Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Ngài cùng ban chưởng quản Giáo Hội Tăng Gìa Nguyên Thuỷ Việt Nam tham gia ủy ban liên phái bảo vệ Phật Giáo đấu tranh trong tinh thần bất bạo động cho sự bình đẳng tự do Tôn Giáo đối với Phật Giáo đến khi thành công và Phật Giáo được Thống Nhất tại miền nam lấy tên là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và Ngài là một trong những thành viên sáng lập nên Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, trong tổ chức Giáo Hội thời bấy giờ. Ngài đã đảm nhiệm các chức vụ như: Tổng Vụ Trưởng/Tổng Vụ Xã Hội – Tổng Vụ Trưởng/Tổng Vụ Cư Sĩ Phật Tử - Tổng Vụ Trưởng/Tổng Vụ Hoằng Pháp. Với chí nguyện hoằng pháp độ sanh với thiên tài sở học phật pháp. Ngài đã hoằng truyền làm tỏ rạng Chánh Pháp Nguyên Thủy khắp cả miền Nam Nước Việt làm cho mọi người biết đến Phật Giáo  Nguyên Thuỷ  tức  Phật Giáo Nam Tông ngày nay, đây là công đức lớn lao với Tăng tín đồ Phật Giáo Nam Tông ngày nay, bên cạnh đó, với sở học Phạn Ngữ Pali Ngài đã trợ duyên cho cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Minh Châu ( viên trưởng viện đại học Vạn Hạnh nay là Học Viện Phật Giáo TP.HCM) Dịch thuật Đại Tạng Kinh Pali_Việt phổ biến đến toàn thể Tăng ni Phật tử có nhu cầu nghiên cứu Phật học, nhất là hòa nhập với phật giáo các nước theo truyền thống Phật Giáo Nguyên Thuỷ. Song song với phật sự Đào tạo Tăng tài_Hoằng dương chánh pháp, Ngài đã kiến tạo nên ngôi chùa Nam Tông với ý nguyện thành lập phân hiện Đại học Phật Giáo Nam Tông thuộc viện đại học vạn hạnh nhằm phát triển Phật Giáo Nam Tông tại Nước Nhà sánh vai cùng các nước Phật Giáo Nam Tông trên Thế giới. Tuy bận rộn đa đoan nhiều phật sự, nhưng Ngài cũng dành thời gian trước tác một số kinh sách như:           

“Tình mẹ _ Trúc Lâm dậy sóng _ Tính đời ý đạo _ Tình bạn _ Thanh Văn sử _ Cuộc đời và sự nghiệp Đại Đế A Dục Vương. V.v…”           

Năm 1981, Ngài lên đường hoằng du chánh pháp nơi xứ người như: Hoa Kỳ, Pháp, Úc, Đức, Thụy Sĩ,v.vv… và kiến tạo nên chùa Pháp Luân ở tiểu bang TEXAS Hoa Kỳ, đồng thời cũng là Tăng Thống Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy VN đầu tiên tại Hoa Kỳ, Ngài là Bổn Sư_ A xà lê _ là giáo Thọ sư biết bao Tăng chúng trong và ngoài nước, với thiên tài phật học xuất chúng và rành mạch ngoại ngữ qua sáu thứ tiếng cũng như là bậc Cao Tăng Thạc đức, nhưng với đức hạnh Khiêm Tốn_ Hòa Nhã _ Tế Nhị và sâu sắc, Ngài luôn được lòng Tăng ni và Phật tử trong và ngoài nước Quý Mến _ Kính Trọng_ với tấm lòng cao cả Ngài luôn đùm bọc che chở nâng đở đối với Huynh đệ và hàng môn đồ đệ tử có thể nói Ngài là tấm gương chói sáng cho hàng hậu học noi bước.

IV. VIÊN TỊCH:            

Cả cuộc đời của cố Hòa Thượng dành trọn cho sự nghiệp tu học và hoằng dương Chánh Pháp không mệt mỏi, đến năm 2007 Ngài tròn 80 tuổi, do tuổi cao sức yếu và thọ bệnh Ngài, nên dừng bước vân du, dưỡng bệnh tại chùa Pháp Luân. Trong suốt thời gian nghỉ dưỡng, dù được Y Bác Sĩ tận tình phục dược và hàng môn đồ đệ tử tại bản tự hết lòng chắm sóc, nhưng sinh lão bệnh tử là định luật mà mọi người ai cũng phải đi qua, định lý Vô Thường Vô Ngã nào phải riêng ai.

Thế nên, Hòa Thượng đã An Nhiên Thị Tịch vào lúc: 6 Giờ 20 ngày 05 tháng 12 năm 2012 ( nhằm ngày 22 /10 năm Nhâm Thìn). để lại cho hàng môn đồ đệ tử Xuất gia và Tại gia cùng Tăng Tín Đồ khắp nơi bao niềm kính tiếc quý thương.             

 85 năm trụ thế, 65 năm hạ lạp, Hòa thượng đã cống hiến bao tinh hoa cho Phật pháp. Giờ đây công đức đã hoàn mãn, Ngài xã thân tứ đại để lại cho Tăng Ni và Phật tử bao niềm kính tiếc.                        

Toàn thể môn đồ đệ tử và Chư Tăng Ni Phật Tử thành tâm cầu nguyện giác linh Hòa Thượng Cao Đăng Thượng Phẩm. 

Namo Buddhaya

     Pháp Tử

 

         Tỳ Kheo Minh Giác

 





















Đăng ký lấy RSS cho bình luận Bình luận (0 đã gửi)

tổng số: | đang hiển thị:

Gửi bình luận của bạn

  • Bold
  • Italic
  • Underline
  • Quote

Xin hãy nhập các ký tự bạn nhìn thấy ở ảnh sau:

BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)

Các bài mới :
Các bài viết khác :

Đánh giá bài viết này

5.00

Tags

Không có tags cho bài viết này

Được quan tâm nhất

Previous
Next

Đăng nhập