Lưỡng nguyệt san Đạo Phật Ngày Nay

Phật giáo thăng trầm: Trường hợp Nhật Bản & Sri Lanka

Đã đọc: 2478           Cỡ chữ: Decrease font Enlarge font
image

Một người Tây phương khác cũng vào Nhật để tu học, và rồi trở thành viện trưởng Thiền viện Antaiji: Sinh năm 1968 tại Berlin, Đức quốc, trưởng thành ở Tây Đức, năm 16 tuổi được một vị thầy trung học dạy ngồi thiền, từ đó đã mơ ước trở thành một thiền sư, học tiếng Nhật ở đại học Berlin cùng với triết học và vật lý học, sang học một năm ở Kyoto University, năm 22 tuổi trở thành cư sĩ tu học ở Antaiji trong 6 tháng...

Làm thế nào để hoằng pháp? Đó là câu hỏi luôn luôn được các vị tôn túc và tất cả các cư sĩ quan tâm, suy nghĩ, thảo luận để tìm phương pháp thích nghi. Đặc biệt, trong hoàn cảnh Việt Nam hòa bình sau cả thế kỷ chiến tranh và đang đối diện với nhiều tôn giáo mới xuất hiện, chúng ta cần những phương pháp hoằng pháp hiệu quả nào để có thể đem lời Đức Phật tới và mời gọi mọi người cùng tu học? Có hai trường hợp độc đáo nên khảo sát: Hoàn cảnh Phật giáo thăng trầm tại Nhật Bản và Sri Lanka.

Trường hợp Phật giáo Nhật Bản, tuy bị nhiều người xem như đang hấp hối, nhưng vẫn đang có ảnh hưởng truyền giáo tại nhiều nước khác trên thế giới, và nhiều người da trắng vì yêu chuộng Phật giáo đã vào sống hòa nhập với người dân Nhật Bản để hoằng pháp trở lại. Như thế, tất nhiên có một sức mạnh văn hóa từ Phật giáo Nhật Bản đã và đang quyến rũ nhiều người khác trên thế giới.

Nhưng tuyệt vời độc đáo là trường hợp Sri Lanka - nơi từng bị thực dân Bồ Đào Nha chiếm đóng trong thế kỷ XVI, Hà Lan chiếm đóng trong thế kỷ XVII và Anh chiếm đóng trong thế kỷ XIX – hệ thống Tăng già Phật giáo đã nhiều lần bị xóa sổ, tới nổi mấy lần, khi các anh hùng dân tộc nổi dậy giành lại đất nước thì thấy rằng không còn một vị sư nào hết, đã mấy lần đưa các đoàn Sa-di sang Miến Điện (lần đầu năm 1597, lần thứ nhì năm 1862), sang Thái Lan (giữa thế kỷ XVIII, trong đời vua  Sri Vijaya Raajasinha) để xin thọ cụ túc giới từ chư tăng Miến Điện và Thái Lan.

Hãy đặt câu hỏi rằng, khi đối diện với hoàn cảnh 21% dân số Sri Lanka theo đạo Thiên Chúa  trong thế kỷ XVII vì ảnh hưởng truyền giáo của thực dân Bồ Đào Nha và Hà Lan, chư Tăng đã hoằng pháp thế nào để mời gọi người dân Sri Lanka trở lại Phật giáo để bây giờ chỉ còn hơn 6% dân số theo đạo Thiên Chúa (tính chung cả Công Giáo La Mã và Tin Lành)? Hãy hình dung, nếu 21% dân số Việt Nam theo đạo Thiên Chúa, chúng ta làm thế nào để mời gọi lại 2/3 khối người đó trở về lại Phật giáo? Nghĩ như thế, mới thấy kỳ công của dân tộc Sri Lanka.

Thực tế, những cuộc kháng chiến giành độc lập cho Sri Lanka đã là một nỗ lực đi tìm và xây dựng lại căn cứ Phật giáo cho Sri Lanka: Tất cả các chùa được biến thành trường học để dạy người dân tu học theo giáo lý nhà Phật và chia sẻ tự hào với lịch sử Sri Lanka, nơi vận mệnh đất nước đã gắn liền với đạo Phật từ thế kỷ thứ II TCN.

Trong khi đó, thế giới vẫn nhìn Nhật Bản như một quốc gia có đại đa số người dân theo Phật giáo, nhưng người dân không còn bận tâm nhiều về tôn giáo nữa. Tuy truyền thống, nhiều người dân Nhật theo cả Thần Đạo và Phật giáo, tương tự như nhiều người dân Việt Nam theo cả Đạo Mẫu và Phật giáo, nhưng quan tâm về tôn giáo đã rất nhạt mờ.

Bản thống kê CIA Factbook cho biết dân số Nhật Bản ước tính vào tháng 7-2011 là 126.475.664 người, trong đó ước tính năm 2005 về thành phần người dân có tôn giáo thì Thần Đạo 83,9%, Phật giáo 71,4%, Thiên Chúa Giáo 2%, các đạo khác 7,8%.

Thực tế bi quan hơn các con số đó. Tự Điển Bách Khoa Wikipedia ghi rằng, các bản khảo sát của nhật báo Yomiuri Shimbun cho thấy quan tâm tôn giáo nhạt theo thời gian: Bản khảo sát 1952 cho thấy, 64,7% dân Nhật nói rằng họ tin vào một tôn giáo cụ thể; bản khảo sát năm 1958 nói, số này chỉ còn 35%; năm 1963 chỉ còn 31%; năm 1973 chỉ còn 25%; năm 1978 tăng lên lại 34%; năm 1983 chỉ còn 32%.

Cũng bản khảo sát Yomiuri cho thấy: Bản năm 2000 ghi là, có 76,6% dân Nhật trả lời rằng họ không tin vào một tôn giáo cụ thể; năm 2005, có 72% dân Nhật nói không liên hệ tới tôn giáo cụ thể nào, và chỉ 25% nói họ có tin vào tôn giáo và 20% nói họ có tu tập theo một tôn giáo.

Một quan điểm phổ biến nhìn rằng, Phật giáo Nhật Bản suy tàn vì đa số các sư lập gia đình. Hình như các thống kê cụ thể về số lượng sư lập gia đình không được phổ biến. Nhưng một điều chắc chắn rằng, vẫn còn nhiều vị sư gìn giữ 250 giới.

Trang web Vatican (của Thiên Chúa giáo La Mã) đã đăng một bài viết của Thiền Sư Soko Morinaga, nhan đề “Celibacy: The View of a Zen Monk from Japan”

(http://www.vatican.va/roman_curia/congregations/cclergy/documents/rc_con_cclergy_doc_01011993_zen_en.html) trong đó cho thấy một phần toàn cảnh Phật giáo Nhật Bản.

Soko Morinaga (1925–1995) là một vị sư dòng Lâm Tế (Rinzai Zen), là Hiệu trưởng đại học

Hanazono University và là tu viện trưởng Thiền viện Daishu-in tại Kyoto. Thiền sư Soko Morinaga là tác giả một số sách về thiền. Một số đệ tử Tây phương được truyền pháp của Thiền sư đã thiết lập các thiền đường ở Anh và Hoa Kỳ. Trong đó có Thiền viện Daishu-in West ở quận Humboldt County, Bắc California và Thiền viện Shobo-an tại London, Anh Quốc.

Một điểm chú ý trong bài viết của Morinaga trên trang Vatican là chính quyền Nhật Bản đóng vai chính trong việc thăng trầm của Phật giáo Nhật Bản.

Bài này trích dịch như sau:

“... Một sắc lệnh mang số 133, ban hành bởi tân chính phủ Meiji năm 1872, ra lệnh rằng các vị sư có quyền tự do “ăn thịt, lấy vợ, và cạo đầu” tùy ý. Từ đó, việc thế tục hóa các vị sư nhanh chóng diễn ra. Tại Tasho năm 1920, Tịnh độ tông Nhật Bản (Jodo) ban hành một số quy định gọi là “Điều Lệ về Gia Đình Trong Tự Viện” (Regulations for Temple Families.”

... Tuy nhiên, trong cương vị một vị sư tu thiền, đã bước vào đời sống tự viện để thành đạt mục tiêu tự giác và giác tha, tôi cảm thấy dễ dàng thực hiện mục tiêu hơn khi không có gia đình và không có nhu cầu tài sản cá nhân; do vậy, đối với tôi, sự lựa chọn đời sống độc thân và khó nghèo là một lựa chọn tự nhiên và hạnh phúc. Tôi chắc chắn không phải là người duy nhất cảm thấy hạnh phúc với đời sống độc thân. Truyền thống Phật giáo Theravada ở Đông Nam Á cổ thời cũng có nhiều bài thơ ca ngợi niềm vui của độc thân. Mặc dù có thể vẫn còn tham ái khởi lên, như tham ái tình dục, niềm vui này bảo vệ đời sống độc thân...”

Một đặc điểm còn thấy ở Nhật Bản: Một số người Tây phương vào Nhật để góp sức gìn giữ Phật giáo. Như trường hợp Hugo Deslippe, sinh trưởng ở Canada, theo đạo Phật khi còn ở đại học. Lúc đó, anh học về Đông Á Học, được một người bạn mời dự dạy một lớp Thiền tông ở Montreal. Bạn của Hugo cũng là người Canada, nhưng thọ giới cụ túc ở tu viện Koya-san ở Nhật Bản năm 2001 để thành một vị sư tu theo Chân Ngôn tông (Shingon, người Việt quen gọi là Mật tông, có khi gọi là Đông Mật để nói về các dòng Mật tông ở phương Đông).

Bây giờ thì, qua trang web Đạo Phật Nhật Bản (http://www.japanese-buddhism.com/), Hugo cho biết anh dạy Anh ngữ cho các trường tiểu học ở Nagano, và từ đất nước mà anh gọi là huyền thoại, anh hoằng pháp bằng mạng Anh ngữ với “... Mục đích của tôi là thảo luận, bằng ngôn ngữ đời thường, về lịch sử, về niềm tin và về biểu tượng, cùng nhiều đề tài khác, của Phật giáo với chủ điểm về Nhật Bản, nơi nghệ thuật và mỹ học mạnh mẽ ảnh hưởng bởi Thiền tông.”

Một người Tây phương khác cũng vào Nhật để tu học, và rồi trở thành viện trưởng Thiền viện Antaiji: Sinh năm 1968 tại Berlin, Đức quốc, trưởng thành ở Tây Đức, năm 16 tuổi được một vị thầy trung học dạy ngồi thiền, từ đó đã mơ ước trở thành một thiền sư, học tiếng Nhật ở đại học Berlin cùng với triết học và vật lý học, sang học một năm ở Kyoto University, năm 22 tuổi trở thành cư sĩ tu học ở Antaiji trong 6 tháng, ba năm sau khi tốt nghiệp đại học trở thành một vị sư với tên là Muho, chuyển sang tu thiền một năm ở Thiền viện Tokufuji dòng Lâm Tế ở Kyoto, tu một năm ở Tu viện Hosshinji ở Obama. Sau khi được ấn khả truyền pháp từ Miyaura Roshi (Viện chủ Antaiji), Muho quyết định sống đời vị sư vô gia cư ở công viên tại Osaka, nơi Muho hướng dẫn một nhóm tập thiền; lúc đó, Muho 33 tuổi. Sau 6 tháng làm nhà sư vô gia cư, vào tháng 2-2002, được tin thầy viên tịch, Muho được gọi về lại Antaiji và được cử lên làm Viện chủ đời thứ 9 của thiền viện này, cũng trong năm 2002. Điều để suy nghĩ: Muho cưới vợ năm 2002.

Nhưng kỷ luật tu thiền ở Antaiji rất nghiêm ngặt. Thiền viện này mở cửa đón người muốn vào tập thiền, cả ngắn hạn và dài hạn. Khi nhập thất nhiếp tâm (sesshin), tất cả các sư ngồi thiền 15 tiếng đồng hồ/ngày. Những ngày khác, phải ngồi Thiền 4 giờ/ngày. Nói ngồi thiền, nhưng là luân chuyển cả thiền hành. Các vị sư đều phải lao động nặng, kể cả chặt cây và xây cất.

Trang web Anh Ngữ của Antaiji ở đây: http://antaiji.dogen-zen.de/eng/index.shtml

Như thế, Phật giáo Nhật Bản có một sức mạnh quyến rũ kể cả ở những vùng thật xa như Canada và Đức quốc. Câu hỏi nơi đây rằng: Vì sao Phật giáo Nhật Bản đang hấp hối?

Một số người trẻ Nhật Bản trả lời trên mạng City-data.com rằng, nhiều chi phái lạ mang danh Phật giáo xuất hiện đã lấy đi rất nhiều tín đồ; và một thanh niên ký tên Sonny viết trên mạng Vấn Đáp Yahoo, “Hãy yêu cầu bất kỳ người Nhật nào kể tên ra một giáo pháp Phật giáo nào xem, chỉ cần kể ra một thôi. Các bạn sẽ thấy rằng không những họ không biết gì cả, họ còn không biết là có những giáo pháp đó từng hiện hữu và sau khi nói chuyện với bạn xong, họ cũng sẽ không bận tâm tìm hiểu về các giáo pháp đó”.

(http://answers.yahoo.com/question/index?qid=20111208150100AAcC4Fl)

Tình hình vừa nói cũng dễ dàng thấy tại Việt Nam và Trung Quốc, nơi đa số người dân chỉ biết sơ sài về giáo pháp nhà Phật, kể cả các gia đình Phật tử truyền thống. Nhưng với Sri Lanka, nơi cũng thường được dân Việt gọi là Tích Lan, thì khác hẳn: Nơi đây, tất cả các chùa đều biến thành nơi dạy Phật pháp và hun đúc tinh thần dân tộc.

Theo CIA Factbook, ước tính vào tháng 7-2011, dân số Sri Lanka có 21.283.913 người; trong đó, theo thống kê 2001 có 69,1% theo Phật giáo, 7,6% theo Hồi giáo, 7,1% theo Ấn Độ giáo, 6,2% theo Thiên Chúa giáo, 10% không cụ thể.

Thông tin từ Bách Khoa Tự Điển Wikipedia cho các con số hơi khác, trích dịch:

“Dân số Sri Lanka theo nhiều tôn giáo: 70% dân theo Phật giáo Theravada, 15% theo Ấn Độ giáo, 7,5% theo Hồi giáo, và 7,5% theo Thiên Chúa giáo. Sri Lanka được xếp hàng thứ 3 thế giới về tính mộ đạo, theo một bản thăm dò Gallup 2008, với 99% dân Sri Lanka nói rằng tôn giáo là một phần quan trọng trong đời sống hàng ngày của họ.

“Theo các truyền thống Thiên Chúa giáo, thánh tông đồ Thomas the Apostle đầu tiên đã tới Sri Lanka (cũng như tới Ấn Độ) trong thế kỷ thứ nhất. Sau khi tới, một số cộng đoàn nhỏ của các tín đồ Thiên Chúa giáo được thiết lập ở vùng ven biển Sri Lanka. Tuy nhiên, số lượng tín đồ Thiên Chúa giáo không tăng nhiều cho tới khi các đoàn truyền giáo Bồ Đào Nha vào trung thế kỷ XV. Trong thế kỷ XVII, người Hà Lan chiếm Sri Lanka, và các đoàn truyền giáo Hà Lan đã có thể chuyển 21% dân số Sri Lanka theo Thiên Chúa giáo vào năm 1722...”

(Link: http://en.wikipedia.org/ wiki/ Religion_in_Sri_Lanka)

Theo Thiên Chúa giáo tới 21%, và rồi càng lúc càng co cụm để bây giờ chỉ còn xấp xỉ 7%? Đó là trường hợp độc đáo của Sri Lanka.

Phật giáo được truyền vào Sri Lanka vào thế kỷ thứ II TCN bởi Đại sư Mahinda, con trai của hoàng đế Ashoka, trong triều vua King Devanampiya Tissa đang trị vì Sri Lanka.

Một chồi cây Bồ-đề mang vào trồng ở Sri Lanka và các tu viện đầu tiên được thiết lập với bảo trợ của vua Sri Lanka. Tạng kinh Pali, trước đó được giữ gìn qua truyền khẩu, đầu tiên được chép xuống tại Sri Lanka vào năm 20 trước Công nguyên.

Ni trưởng Arahath Sanghamitra, con gái của Vua Ashoka, cũng vào thiết lập Ni đoàn ở Sri Lanka. Bây giờ, không còn Ni đoàn tại đây.

Vào khoảng năm 200 trước Công nguyên, Phật giáo trở thành quốc giáo ở Sri Lanka. Xá lợi răng Đức Phật được mang vào Sri Lanka trong thế kỷ thứ IV bởi hoàng tử Danta và công chúa Hemamala. Sri Lanka có một lịch sử Phật giáo liên tục dài nhất so với bất kỳ quốc gia Phật giáo nào. Trong những thời kỳ suy thoái, khi Tăng đoàn biến mất, các Sa-di lại được đưa sang Miến Điện và Thái Lan để thọ giới cụ túc và thiết lập lại Tăng đoàn.

Sau đây sẽ tóm lược một số chi tiết về thăng trầm của Phật giáo Sri Lanka, dựa vào thông tin từ các nguồn khác nhau, trong đó phần lớn là từ bài viết “Buddhism in Sri Lanka: A Short History” (Lược Sử Phật giáo Sri Lanka) của tác giả H.R. Perera. Những người quan tâm nên tìm đọc bản gốc Anh văn, sẽ có nhiều thông tin hơn.

 Bài này có link ở: http://www. accesstoinsight.org/lib/authors/perera/wheel100.html. (Còn tiếp)

Đăng ký lấy RSS cho bình luận Bình luận (0 đã gửi)

tổng số: | đang hiển thị:

Gửi bình luận của bạn

  • Bold
  • Italic
  • Underline
  • Quote

Xin hãy nhập các ký tự bạn nhìn thấy ở ảnh sau:

BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)