Tâm Phật Ví Như Hoa Sen

Đã đọc: 2674           Cỡ chữ: Decrease font Enlarge font
image

Phật khuyên người Phật tử chân chính giữ tròn năm giới, để được bảo đảm đời sau trở lại làm người có nhân cách đạo đức tốt. Nếu chúng ta hiện đời giữ tròn năm giới, thì hiện tại có ai dám khinh thường mình hay không? Hay còn khen ngợi nữa! Như người phạm tội ăn cắp hoặc cướp giựt của người khác, trước tiên là bị tù tội rồi sau đó bị mọi người coi thường khinh chê không dám gần gũi. Phật bảo, ai giữ được năm giới sẽ xứng đáng nhận danh hiệu làm người tốt trong hiện tại và mai sau.

                               Hoa sen mọc chốn bùn nhơ,

Nở hoa tươi thắm, ngát thơm cuộc đời.

                              Thân này nhơ nhớp vô thường,

                       Có tâm thanh tịnh sáng soi muôn loài.

 

Trong sự quyền uy tột bực với tất cả những gì đang hiện hữu mà người đời ai cũng tham muốn để có được tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, mặc đẹp và ngủ nghỉ thoải mái. Nhưng cách nay hơn 2600 năm có một vị Hoàng thái tử đã thoát ra được và tu hành giác ngộ thành Phật.

 

Đức Phật không phải là một vị thần linh thượng đế ban phước giáng họa cho mọi người, mà đức Phật chính là con người giống như tất cả mọi người chúng ta, cũng được sinh ra từ bụng mẹ vẫn hưởng đầy đủ dục lạc ở thế gian, nhưng nhờ biết cách buông xả, nên thoát khỏi vũng bùn ngũ dục trở thành đấng giác ngộ hoàn toàn.

 

Trong thế gian hầu như tất cả mọi người đều bị dính mắc bởi tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, mặc đẹp và ngủ nhiều. Nói đến hoa sen, trước nhất là trong các chùa, chúng ta đều thấy tượng đức Phật ngự trên toà sen và có nhiều chùa thờ đức Phật cầm cành sen. Nếu đọc lịch sử chúng ta sẽ biết đức Phật ngồi dưới cội Bồ-đề, trên toà cỏ. Nhưng hiện nay chúng ta lại thờ đức Phật ngồi trên tòa sen, như vậy có làm sai ý nghĩa hay không? 

 

Tòa sen mang ý nghĩa gì mà ai tu theo đạo Phật cũng đều quí trọng, để làm tòa cho đức Phật ngồi? Đó là những điều cần biết mà người Phật tử phải hiểu rõ mục đích và ý nghĩa trên, để khi có người hỏi chúng ta biết cách trả lời cho đúng. 

 

Như chúng ta đã biết, hoa sen luôn mọc trong ao, trong hồ từ chỗ bùn nhơ mà ra. Như vậy giá trị của hoa sen là từ nơi bùn nhơ vươn lên khỏi bùn, rồi ra khỏi mặt nước mới trổ hoa đồng thời có gương, nhụy, hột cùng một lúc mà các loài hoa khác không thể có, đó là điểm kỳ đặc của hoa sen. 

 

Sen rất khác biệt hơn các loài hoa khác, ở chỗ mầm nó chui trong bùn nhưng khi gần trổ hoa thì nó vượt khỏi bùn và vươn lên khỏi mặt nước rồi mới trổ hoa. Đặc tính của sen khi còn ở trong bùn thì hôi, nhưng khi nó nở hoa thì hương sen thơm ngát. Thế cho nên đạo Phật dùng ý nghĩa của hoa sen, để tượng trưng cho người tu hành chân chính đã thành tựu giác ngộ, giải thoát hoàn toàn.

 

Theo lịch sử, đức Phật ngày xưa là thái tử con vua Tịnh Phạn, Ngài sống trong cảnh quyền quý cao sang, sung túc đầy đủ với kẻ hầu người hạ muốn gì được đó. Tuy Ngài sống và chìm đắm trong ngũ dục giống như tất cả mọi người ở thế gian, nhưng Ngài đã thức tỉnh sau khi dạo bốn cửa thành thấy người già, bệnh, chết và vị tu sĩ. Từ đó Ngài suy tư quán chiếu ta đây rồi cũng sẽ già, bệnh, chết mà tìm cách để thoát khỏi và cuối cùng Ngài quyết định bỏ lại tất cả để ra đi tìm cầu chân lý.

 

Sau một thời gian dài khoảng 11 năm do siêng năng tinh tấn tu hành, cuối cùng Ngài đã chứng được đạo vô thượng chánh đẳng giác và thành Phật, rồi chỉ dạy cho chúng ta. Vậy giá trị của hoa sen là từ chỗ nhơ nhớp hôi hám mà trổ hoa có mùi hương tinh khiết, chính vì thế hoa sen thường được dùng làm biểu tượng cao quý trong nhà Phật.

 

Thứ nhất khi Ngài còn ở trong cung vua thọ hưởng đầy đủ các dục lạc, được ví dụ như hoa sen còn ở trong bùn. Thứ hai khi Ngài bỏ lại hết tất cả để vượt thành xuất gia tìm cầu chân lý không còn hưởng thụ dục lạc nữa, ví dụ như hoa sen vượt ra khỏi bùn nhưng vẫn còn ở trong nước. Cho đến khi Ngài cố gắng siêng năng tinh tấn tu hành, cuối cùng đạt được kết quả viên mãn giác ngộ, giải thoát giống như hoa sen vượt khỏi mặt nước, để rồi nở hoa thơm ngát. 

 

Cũng lại như thế, hoa sen từ lúc mới mọc cho đến khi trổ hoa trải qua nhiều giai đoạn: Giai đoạn một là ở trong bùn, giai đoạn hai là ra khỏi bùn ở trong nước, giai đoạn ba là ra khỏi nước và nở hoa thơm ngát.

 

Như chúng ta đã biết, hoa sen mọc lên từ bùn lầy. Hoa sen vượt khỏi bùn, nhú lên mặt nước, và cuối cùng tỏa hương thơm ngát. Điểm đặc biệt của hoa sen nếu không có bùn lầy nuôi dưỡng thì hoa sen sẽ không thể sống được. Đó là đặc tính của hoa sen và chính vì thế nó được chọn làm biểu tượng cao quý trong Phật giáo.

 

Người tu chúng ta không thể rời cuộc sống này để tìm đạo lý giác ngộ giải thoát. Từ chỗ cuộc sống có đủ thứ tốt xấu, hơn thua, phải trái, đúng sai, buồn vui lẫn lộn, chúng ta mới cố gắng chuyển hóa những nỗi khổ niềm đau, thành an vui hạnh phúc. Đó là tinh thần tích cực của những người biết buông xả tâm xấu ác làm hại người, vật. Giống như hoa sen sống từ bùn lầy và vươn lên nở hoa thơm ngát.

 

Ý nghĩa của hoa sen, trong nhà Phật giải thích rất rộng và thường lấy  hoa sen làm biểu tượng cao quý. Có thể nói hoa sen là một biểu tượng quan trọng mà hầu hết các kinh điển Phật giáo đều nói đến nhất là bộ Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.

Ngoài ra, hoa sen còn được biểu trưng qua những lãnh vực khác mang tính đặc thù văn hóa của mỗi quốc gia dân tộc theo Phật giáo. Như các đoàn thể gia đình Phật tử chẳng hạn. Vì thế, ở đây, chúng tôi chỉ xin giải thích một cách khái lược qua một vài đặc tính tiêu biểu mang tính ẩn nghĩa sâu sắc trong Phật giáo mà thôi.

Hoa sen có tám đặc tính kỳ diệu:

Thứ nhất là tính không nhiễm: Hoa sen dù được mọc lên từ bùn nhơ, nhưng bản chất của nó vẫn tinh khiết trong sạch, không bị bùn lầy làm ô nhiễm. Ca dao Việt Nam có bài thơ nói về đặc tính không nhiễm ô nầy:

                           Trong đầm gì đẹp bằng sen

                  Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng

                         Nhụy vàng bông trắng lá xanh

                    Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

Dù nằm trong bùn trải qua nhiều năm tháng, nhưng hoa sen vẫn chờ ngày vươn mình lên khỏi mặt nước để nở hoa, rồi khoe hương thơm tinh khiết cùng khắp đất trời. Như chúng ta đã thấy, chất bùn tuy hôi dơ nhưng không làm cho hoa sen bị ô uế nhiễm ô. Bùn là tượng trưng cho phiền não tham sân si, mạn nghi ác kiến, còn hoa sen là biểu tượng cho sự thanh tịnh, sáng suốt. Ý nghĩa này nói lên chư Phật Bồ tát ra đời, các Ngài vẫn sống sinh hoạt ăn uống, làm việc như tất cả mọi người mà không bị dòng đời cuốn trôi.

Ngược lại, người phàm phu chúng ta thì có khác, đụng đâu thì dính đó do sự cố chấp của mọi người. Hoa sen được ẩn dụ cho mỗi người chúng ta ai cũng có sẵn Phật tính sáng suốt. Giống như bản chất của gương là trong sáng, do bị bụi bám dính nên ta phải thường xuyên lau chùi bụi. Cũng vậy, chúng ta vì vô minh che lấp chạy theo vọng nghiệp trần lao mà tạo ra nhiều tội lỗi, để rồi phải chịu biết bao phiền muộn khổ đau.

Loài sen thường mọc ở những nơi có nước như sông, ao, hồ… nhưng hoa sen vẫn nhú lên vượt khỏi bùn lầy và nở hương thơm tinh khiết. Nó giống như những người chân chính tu hành, sống giữa cõi đời trần tục với biết bao oan trái trần gian, nhưng vẫn vượt qua và vươn lên làm chủ bản thân để cùng chia vui sớt khổ với tất cả mọi người.

Đặc tính thứ hai là lóng trong tinh khiết. Nếu chúng có thời gian quán sát chỗ nào có hoa sen mọc, thì nơi đó nước không bao giờ đục, đó là điểm đặc biệt của tính lóng trong. Bởi vì bản chất của nó mang sẵn tính lóng trong tinh khiết.

Điều nầy nói lên ý nghĩa biểu tượng cao quý của Phật pháp, nơi nào có chư Phật, Bồ tát ra đời, thì nơi đó sẽ giúp cho chúng sinh được nhiều an vui, lợi lạc. Ngược lại, nơi nào có nhiều phần tử xấu ác bất lương, thì chắc chắn nơi đó tệ nạn xã hội lan tràn, gây ra hậu quả khổ đau làm tổn hại đến nhiều người.

Hoa sen có những đặc điểm rất kỳ diệu, hoa của nó rất đẹp, thơm và quyến rũ nhưng không hề bị một loài côn trùng nào có thể xâm hại được bông hoa của nó, bởi lẽ trong nhị hoa sen có chất lóng trong tinh khiết nên làm cho các loài côn trùng không dám đến gần.

 

Điểm đặc biệt tính lóng trong của hoa sen, các loài hoa khác không thể có được. Đặc tính nầy, sẽ giúp cho chúng ta có đủ niềm tin về tâm Phật sáng suốt của mình, để biết cách áp dụng vào trong đời sống hằng ngày, nhờ vậy ta có thể vượt qua cạm bẫy cuộc đời nhằm chuyển hóa nỗi khổ niềm đau, thành vô lượng trí tuệ và từ bi.

 

Chúng ta thường xuyên lóng trong mọi cấu uế nhơ bẩn của phiền não tham sân si, thì nước hồ tâm của ta mới ngày càng được trong sạch. Nó  giống như đức hạnh của người tu hành chân chính, luôn lấy việc tu tâm, tích đức làm lợi ích chúng sinh không biết mệt mỏi nhàm chán vì không thấy ta, người, chúng sinh.

 

Hoa sen có đặc điểm rất hay, nơi nào có sen thì nước ở đó sẽ rất trong sạch bởi hoa sen có lọc nước và khử trùng. Hoa sen cũng là biểu tượng cao quý trong nhà Phật và nơi nào có Phật pháp thì nơi đó giảm bớt khổ đau, nhờ biết cách thay đổi, chuyển hóa tâm xấu ác của con người. 

 

Đặc tính thứ ba là kiên nhẫn chịu đựng: Như chúng ta đã biết, hoa sen là loại nẩy mầm từ rễ củ của nó. Hoa sen mang đặc tính kiên nhẫn chịu đựng, vì rễ củ của nó nằm trong bùn một thời gian dài, để chờ đợi đầy đủ nhân duyên là nó sẽ nẩy mầm ngay. Sự chờ đợi đó, tức là đức tánh kiên nhẫn chịu đựng trong bùn nước nhơ. Chúng ta, những người học tu theo Phật, cần phải rèn luyện đức tính kiên nhẫn chịu đựng trong mọi hoàn cảnh để có cơ hội dấn thân và đóng góp mà không thấy ta, người, chúng sinh nên dễ dàng buông xả tâm xấu ác và sự chấp trước của mình.

Chúng tôi, khi nói về đặc tính này thật tình rất là hổ thẹn, bởi vì mình còn sân giận quá nhiều cho nên đã bỏ qua rất nhiều cơ hội tốt. Thói quen chấp trước dính mắc nhiều đời nó làm cho ta tham lam, ích kỷ rồi dẫn đến sân giận, ngay khi ấy nếu ta không đủ sức kiềm chế lại được thì sự nghiệp tu hành bao nhiêu năm, tan thành mây khói.

Việc đời hay việc đạo muốn đạt được kết quả tốt đẹp, trước tiên chúng ta phải có đức tính kiên nhẫn chịu đựng nầy. Chính vì vậy, người Phật tử chân chính muốn có tâm từ bi rộng lớn phải thực hành hạnh nhẫn nhục như hoa sen đã kiên nhẫn chịu đựng, để rồi vươn lên khỏi mặt nước và nở hoa thơm ngát.

Đặc tính thứ tư là trong sạch vô ngại: Đức tính nầy, trong các loài hoa không bao giờ có được mà đặc biệt chỉ có hoa sen mới có. Vì hoa sen có những cánh hoa bao bọc gương sen tròn trịa. Hoa sen từ lúc nở cho đến lúc tàn, không bị các loài ong bướm đến làm hư hoại, khác với các loài hoa khác bị ong bướm tìm đến bu đậu và hút lấy nhụy hoa.

 

Hoa sen sẽ tàn lụi theo thời gian nhất là vào mùa đông, nhưng mùa xuân hoa sen lại vươn lên mạnh mẽ. Trong khi đó nhiều hạt sen, củ sen có thể bị chôn vùi dưới bùn đất, nhưng nó có thể tồn tại suốt một thời gian dài mà không bị hủy diệt, đến khi có nhân duyên đầy đủ, sen vẫn vươn lên mạnh mẽ tạo sức sống trở lại.

Giữa mùa hè nóng bức, nhưng hoa sen vẫn vươn mình mọc lên và trổ hoa thơm ngát, cũng như con người chúng ta đang bị lửa phiền não tham sân si… thiêu đốt, nhưng ta vẫn đủ sức nhẫn chịu để làm mới lại chính mình nhờ biết cách buông xả tâm xấu ác. Điều nầy, để nói lên ý nghĩa chư Phật Bồ tát ra đời trong cõi ác ngũ trược, chúng sinh nhiều phiền não, bức bách khó chịu, các Ngài mang lại nước cam lồ từ bi, để tưới tẩm làm dịu mát thân tâm cho mọi người.

 

Đặc tính thứ năm là hương vị tinh khiết nhẹ nhàng. Hoa sen vừa có hương vị lại vừa có sắc đẹp hài hòa làm cho mọi người ưa thích ngắm nhìn không biết chán. Hoa sen thường có 2 màu chính là màu trắng và màu hồng. Điểm đặc biệt của hương sen cho ta mùi vị thoang thoảng, dịu dàng quyến rũ chứ không nồng nặc, tạo cho con người có cảm giác an lành khi được thưởng thức và ngắm loài hoa này.

 

Đặc tính thứ sáu là ngay thẳng và rỗng không. Ít có loài hoa nào mọc lên mà có thân hình ngay thẳng như hoa sen. Cũng lại như thế người tu hành chân chính, dù sống trong hoàn cảnh bị ô nhiễm nhưng ta vẫn tỉnh giác trong từng phút giây không bị các niệm phải quấy, tốt xấu, hơn thua, thiện ác chi phối làm vẫn đục tâm. Sống được như vậy chúng ta mới thật sự bình yên hạnh phúc, như hoa sen mọc từ bùn thẳng lên và rồi khoe hương thơm tinh khiết.

 

Thân của hoa sen lúc nào cũng thẳng đứng mang hình dáng trang nghiêm. Tuy trong ruột rỗng không mà vẫn đứng vững, rỗng không mà vẫn vươn lên khoe hương, khoe sắc tạo sự thoải mái an lành cho mọi người khi ngắm nhìn. Và nó được biểu hiện qua việc tu tâm sửa tính chỉ giữ tâm thanh tịnh sáng suốt mà buông xả tất cả tạp niệm, đó là lẽ sống của những người tu hành chân chính, không phân biệt người xuất gia hay tại gia.Điểm kỳ diệu đặc biệt nầy để nói lên một ý nghĩa rất thâm trầm là người tu hành cần phải có đức tính từ bi và hỷ xả, bao dung và độ lượng, cảm thông và tha thứ, và không thấy ai là kẻ thù.

 

Đặc tính thứ bảy là nhân quả đồng thời. Các loài hoa khác, khi bông tàn mới kết nụ thành trái và có hột. Ngược lại, hoa sen khi nở ra thì đã có gương có hột sẵn rồi. Đó là nhân quả đồng thời vì khi có hoa sen, là có gương sen và hột sen cùng một lúc.

Điều nầy, nói lên ngay nơi thân vô thường sinh già bệnh chết của mọi người có tâm Phật thanh tịnh sáng suốt nhưng thường biết rõ ràng. Tâm Phật ấy nương nơi mắt tai mũi lưỡi thân ý nhưng vẫn thấy biết mà không bị tất cả các niệm thiện ác, phải quấy, tốt xấu, hơn thua chi phối.

Đặc tính thứ tám là tính hy sinh. Người ta thường dùng lá sen để gói cốm hoặc hấp cơm sen, lá non và hoa để làm thuốc, thân sen và củ sen để làm thức ăn, và hạt sen ăn rất ngon…Hầu như toàn thể các bộ phận trên sen dùng làm thức ăn và làm thuốc rất có lợi cho con người. Điều này nói lên tinh thần từ bi hỷ xả của đạo Phật, sẵn sàng dấn thân đóng góp, giúp đỡ sẻ chia bằng trái tim thương yêu và hiểu biết vì mọi người, khi có nhân duyên.

Thật tế, ý nghĩa của hoa sen rất vô cùng cao quý chúng tôi chỉ tạm thời  giải thích theo sự hiểu biết của mình dựa theo lời Phật dạy và kinh nghiệm của những người đi trước. Hoa sen là loài hoa đặc biệt có tính cách nhân quả đồng thời, khi có hoa là có gương và có hột, nên được làm biểu tượng cao quý trong Phật giáo, để nói lên tinh thần từ bi và trí tuệ của đạo Phật.

Hoa sen là hình ảnh độc nhất vô nhị được gắn liền với Phật giáo từ ngàn xưa cho đến nay. Hoa sen được tồn tại và gắn liền với Phật giáo Việt Nam. Nhờ những đặc tính hiếm có này mà hoa sen hoàn toàn xứng đáng được tôn vinh là quốc hoa của đất nước. 

Tiếp đến là chúng ta nói đến biểu tượng hoa sen theo tinh thần Phật giáo phát triển trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Pháp là Diệu Pháp, Liên Hoa là hoa sen, Diệu Pháp được ví dụ như hoa sen nên gọi là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.

 

Diệu Pháp là gì? Tức là Tri kiến Phật. Kinh Pháp Hoa nói: “chư Phật ra đời vì khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến”, nghĩa là chỉ dạy cho chúng ta ngộ được Tri kiến Phật, tức là cái thấy biết Phật của mình, cái thấy biết này ra sao? Thường biết rõ ràng nương nơi mắt, thấy chỉ là thấy mà không khởi tâm động niệm dính mắc đối với các hình ảnh sự vật, tai mũi lưỡi thân ý cũng lại như thế.  

 

Trong kinh Pháp Hoa Phật dạy: ba cõi không an giống như ở trong nhà lửa. Thân vô thường của chúng ta bị thiêu đốt bởi lửa phiền não tham sân si, làm cho ta chết trong từng phút giây, tuy nhiên ngay nơi thân này có  cái chưa từng bị thiêu đốt, luôn nguyên vẹn sáng trong đó là tâm Phật thanh tịnh sáng suốt, thấy biết đúng như thật.  

 

Như chúng ta đã biết, cuộc đời đức Phật trải qua nhiều giai đoạn: giai đoạn một là đắm mê dục lạc ở thế gian, giai đoạn hai là thấy rõ được sự tác hại của nó mà bỏ hết tất cả để vượt thành xuất gia, giai đoạn ba là do Ngài biết cách điều hòa thân tâm và siêng năng tinh tấn tu hành mà giác ngộ thành Phật viên mãn.  

 

Như có một vị Tăng hỏi một vị thiền sư: Hoa sen khi chưa ra khỏi nước thì thế nào? Ngài đáp: Hoa sen. Sau khi ra khỏi nước thì thế nào? Lá sen. Nếu chúng ta chạy theo ngôn ngữ của các vị thiền sư thì ta bị các Ngài lừa. Tại sao vậy? Cái gì nghe, nếu mình không có tính nghe thường hằng thì làm sao biết âm thanh lớn nhỏ. 

 

Vị Tăng hỏi “hoa sen khi chưa ra khỏi nước thì thế nào” là ý ngầm hỏi  Phật tính của chúng ta hình tướng ra sao! Để dẹp bỏ tình thức nhạy bén của vị Tăng Ngài trả lời: Hoa sen. 

 

Rồi vị Tăng lại hỏi tiếp: Sau khi ra khỏi nước thì thế nào? Lẽ ra sau khi ra khỏi nước là sen sắp nở hoa thơm ngát và tinh khiết, cũng như là tâm Phật của chúng ta khi không bị vọng niệm phiền não che chướng thì thanh tịnh sáng suốt có thiếu vắng bao giờ đâu! Ở đây Ngài lại đáp là “lá sen”. Như vậy thiền sư đáp hoa sen, đáp lá sen, là để cho chúng ta không được hiểu mà phải thấy, phải nghe trong tỉnh giác.  

 

Khi tâm chúng ta không còn chạy theo ngoại cảnh lăng xăng nữa, thì tâm thanh tịnh sáng suốt sẽ hiện tiền và mùi hương thơm ngát của hoa sen không còn bị bùn lầy làm vấy bẩn. Đó là ý nghĩa hoa sen. Ở ngay nơi cuộc sống hiện tại mà ta không chịu tu, lại đòi vô rừng sâu núi thẳm mới tu, như thế lại càng khó tiến tu khi tâm chúng ta chưa vững vàng. Chúng ta làm sao giống như hoa sen ở trong bùn lầy mà vẫn trong sạch, tu như thế mới thật sự được lợi ích cho mình và người.

 

Người tu chúng ta cần phải biết mình còn dở cái gì, thì phải cố gắng bỏ từ từ cho đến khi nào hết mới thôi, chớ đừng có cống cao ngã mạn khinh thường người khác cho mình là hay, là giỏi. Chúng ta phải biết khiêm tốn thấp mình, biết hổ thẹn khi làm điều gì sai quấy và thành tâm ăn năn sám hối để sửa sai lỗi lầm.

 

Trong cuộc sống của chúng ta mà thiếu đi những người tu hành chân chính thì thế gian sẽ là một thiệt thòi to lớn, vì không có ai hướng dẫn cho chúng ta biết được đạo đức làm người. Trong một cộng đồng xã hội mà không có đạo đức thì tệ nạn sẽ lan tràn, làm ảnh hưởng và gây đau khổ cho nhiều người. Nếu ai cũng nhiễm những thói hư tật xấu như giết người, trộm cướp, lường gạt, lừa đảo tinh vi bằng nhiều hình thức... thì thử hỏi cuộc sống này sẽ ra sao? Chính vì lợi ích của nhân loại, lợi ích của nhiều người mà chúng ta phải cố gắng tu hành để mở rộng tấm lòng từ bi rộng lớn nhằm chia vui sớt khổ với tinh thần vô ngã, vị tha.

 

Những việc làm tốt đạo, đẹp đời luôn giúp cho xã hội, tạm thời vượt qua nỗi khổ niềm đau để được an vui hạnh phúc bằng trái tim thương yêu và hiểu biết, ngay tại đây và bây giờ.

 

Và con đường thiết lập hạnh phúc, dẫn đến bình yên lâu dài phải được  chính mỗi cá nhân thực hiện, không ai có thể làm giúp cho ta, ta làm ác cũng từ thân miệng ý và ta làm tốt cũng từ đó mà ra, người khôn ngoan sáng suốt sẽ chọn điều tốt, điều lành để làm. Cuộc sống thế gian nếu nhiều người thiếu đạo đức, thì xã hội sẽ dễ dàng bị loạn lạc và số đông sẽ sống trong đau khổ lầm mê.

 

Khi chúng ta đạt được một cái gì như ý muốn thì ngay đó, có sự ganh ghét tật đố, có sự lo lắng sợ hãi, và có tham lam ích kỷ. Đức Phật bảo hãy đến đây và tu tập để giải thoát! Dĩ nhiên chúng ta không phải dễ dàng sống theo tuệ giác của Thế tôn, chúng ta phải chịu khó, chịu khổ và bằng lòng với hiện tại, sống trong ít muốn biết đủ và có sự điều độ hài hòa.

 

Thật vậy, hoa sen được vươn lên từ bùn lầy mà nở hoa thơm ngát chẳng bao giờ bị ô nhiễm. Cũng vậy, tâm Phật hiện tiền khi ta biết sống trong tỉnh giác nên không bị trần lao làm mê hoặc. Hoa sen vẫn nở hoa thơm ngát nhưng không giống các loài hoa khác vì những đặc điểm như sau.

 

Đặc tính của hoa sen khi nở ra là đã có sẵn gương ở trong rồi, chúng ta gọi là nhân quả đồng thời. Mọc trong bùn lầy mà vẫn trong sạch thơm tho, hoa sen sinh trưởng từ trong bùn lầy, cọng hoa từ gốc đã tách rời cành lá một mình vươn lên nở hoa thơm ngát.

 

Tất cả các loài ong bướm hoa nào nó cũng đến viếng thăm bu đậu và hút nhụy hoa, nhưng đặc biệt là hoa sen nó lại không đến được vì sự trong sạch tinh khiết của nó, và không bị con người lấy làm đồ trang sức. Còn chúng ta từ vô thủy kiếp đến nay sống chết luân hồi, không biết quay lại chính mình mà sống trong điên đảo lầm mê.

 

Tóm lại, hoa sen tinh khiết không bị nhiễm ô bởi bùn nhơ mà vẫn vươn lên khỏi mặt nước để nở hoa thơm ngát. Cũng vậy, thân này vô thường đổi thay nên ai cũng phải chịu sự chi phối của già bệnh chết. Tuy nhiên ngay nơi thân ô uế này có tâm thanh tịnh sáng suốt, tâm ấy là tâm Phật nương nơi mắt, thấy chỉ là thấy nhưng vẫn thường biết rõ ràng, thấy tức biết, biết mà không khởi tâm động niệm, dính mắc ta, người, chúng sinh và tai mũi lưỡi thân ý cũng lại như thế. Chính vì vậy mà tâm Phật được ví như hoa sen. Đó là điểm đặc biệt mầu nhiệm của Phật giáo.

 

LỜI PHẬT DẠY VỀ CÁC TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN

 

Ngày xưa có một ông nhà giàu quanh năm suốt tháng cứ mải mê đầu cơ tích trữ, bồi đắp cho bản thân, nuôi tham vọng làm giàu, bất chấp mọi thủ đoạn, bóc lột nhiều người khác để mình được giàu có sung túc đủ đầy.

 

Có một lần vợ ông ta bệnh nặng, ông thỉnh một vị Tăng về nhà tụng kinh cầu an để tiêu trừ nghiệp chướng, bệnh tình qua khỏi. Ông nói với vị Tăng: Nhờ thầy tụng kinh cầu nguyện chư Phật và Bồ-tát gia hộ cho gia đình tôi được bình an, việc làm ăn của gia đình ngày càng thêm phát đạt, vợ tôi mau qua khỏi cơn trọng bệnh, con cháu tôi sớm được thăng quan tiến chức và tiền bạc vô đều đều.

 

Vị Tăng nghe ông nhà giàu nói như vậy, nên muốn cảnh tỉnh ông ta, bèn đúng pháp làm lễ, khấn lớn tiếng rằng: Nguyện cầu chư Phật và chư Bồ-tát từ phương xa mau về đây từ bi chứng giám, hiện tiền gia chủ cầu khẩn chư Phật, chư Bồ-tát gia hộ cho gia đình ông ta được bình an, hạnh phúc, con đông cháu đầy, việc làm ăn ngày càng thịnh vượng, vợ ông bệnh tật tiêu trừ, tai qua nạn khỏi, mọi người trong gia đình người thân đều được như ý muốn.

 

Nghe vị Tăng khấn nguyện như vậy ông nhà giàu lấy làm ngạc nhiên, nên mới thắc mắc: Tại sao sư phụ lại cầu khẩn Phật và Bồ-tát phương xa mà không thỉnh các vị ở gần đây, để các vị ấy đến đây ban phúc đức cho gia đình con nhanh chóng?

 

Vị Tăng trả lời: Sở dĩ tôi không cầu Phật và Bồ-tát ở gần là vì e ngại các vị ấy không chịu đến để giúp cho gia đình ông. Ông hãy suy nghĩ lại đi, ông nay đã trên 60 tuổi sắp gần đất xa trời rồi mà chưa từng biết giúp đỡ một ai nói chi là bố thí cúng dường, ngược lại còn tham lam bỏn sẻn, sân hận chửi mắng đánh đập người khác, không biết tôn trọng mọi người, có của dư thừa đem đổ bỏ, không chịu san sẻ cho người.

 

Bởi chư Phật và Bồ-tát ở gần đây đều biết ông tham lam bỏn sẻn, keo kiết, nên các Ngài sẽ không đến giúp gia đình ông đâu. Chính vì vậy mà tôi phải thỉnh cầu chư Phật và Bồ-tát ở phương xa về giúp ông ít nhiều gì đó!

 

Đây là một câu chuyện ngụ ngôn mang một triết lý sâu sắc, nhằm nhắc nhở chúng ta phải tin sâu nhân quả, muốn được sống an vui hạnh phúc về vật chất lẫn tinh thần, thì phải biết gieo nhân tốt. Vị Tăng trong câu chuyện trên mượn việc cầu Phật và Bồ-tát phương xa mà không cầu Phật và Bồ-tát ở gần, để thức tỉnh ông nhà giàu quá tham lam, bỏn sẻn.

 

Chúng ta muốn cầu Phật và Bồ-tát có sự cảm ứng thì lúc nào cũng phải sống có nhân cách đạo đức tốt, biết giúp đỡ người khác khi gặp hoàn cảnh khó khăn luôn mở rộng tấm lòng lòng vô ngã vị tha… Phật và Bồ-tát là những bậc toàn chơn, toàn giác, toàn thiện, toàn mỹ, muốn cầu các Ngài có cảm ứng thì tâm niệm và việc làm của chúng ta, phải tương ưng với hạnh nguyện của các Ngài.

 

Trên thế gian không chỉ riêng ông nhà giàu nọ, mà có rất nhiều người không biết tội phước là gì, cho nên không tin nhân quả, điên đảo làm các việc xấu ác, đến lúc gặp quả xấu, thì van xin lạy lục cầu xin Phật, Bồ-tát giúp cho.

 

Nhân quả công bằng khi đủ duyên thì quả tốt hay xấu sẽ đến, đâu có Phật, Bồ-tát ban phước giáng họa cho ta được. Nếu Phật làm được điều đó, thì đâu có khuyên ta hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với chánh pháp. Phật luôn khuyên mọi người tin sâu nhân quả mà ráng cố gắng làm điều lành, dứt trừ việc ác và luôn giữ tâm ý trong sạch.

 

Những người có tâm địa không tốt, xấu xa, độc ác, tham lam, ích kỷ, hẹp hòi thì làm sao có được kết quả tốt đẹp và làm sao có được sự cảm ứng nơi các Ngài. Khi chúng ta đã tin sâu nhân quả rồi, nếu muốn có cây lành trái ngọt thì phải biết gieo nhân tốt và tạo các duyên thích hợp, để nhân đó được phát triển và trổ quả lành.

 

Như chúng ta muốn sống lâu thì phải không sát sinh hại vật, trước là không được giết người và hạn chế tối đa việc giết hại các loài vật khác hoặc dứt khoát không giết một vật nào. Thứ hai là phải có ý thức giữ gìn sức khỏe, siêng năng vận động, ăn uống tiết độ, làm việc có chừng mực và không vui chơi trác táng quá đáng. Đã không giết hại rồi còn phải biết bố thí, phóng sinh các loài vật khi gặp cảnh sắp chết của nó.

 

Muốn được giàu sang thì phải biết bố thí cúng dường, giúp đỡ sẻ chia mỗi khi cần thiết, kế đến là siêng năng cần mẫn trong làm việc, biết tiết kiệm trong chi tiêu, không vui chơi hoang phí và trộm cướp lường gạt của người khác, đó là nguyên nhân dẫn đến nghèo cùng khốn khổ.

 

Tóm lại, nếu chúng ta không biết gieo nhân lành, và sống tốt với nhiều người khác thì khi gặp hoạn nạn chúng ta không thể cầu chư Phật, Bồ-tát giúp cho mình tai qua nạn khỏi được. Nhân quả nhãn tiền có cầu tất ứng là do nhân nhiều đời biết giúp người cứu vật, không có gì là đương nhiên khi không hoặc đấng tối cao ban phước giáng họa cho ta được.

 

Ngày nay, hiện tượng tín ngưỡng dân gian với nhiều hình thức làm cho con người không biết rõ bản chất thực hư của nó ra sao. Đất nước chúng ta quá nhiều tín ngưỡng giết hại, tín ngưỡng mê tín dị đoan, tín ngưỡng ông lên bà xuống, tín ngưỡng cúng sao giải hạn, và vô vàn các tập tục làm cho ta đánh mất chính mình mà không biết cách làm chủ bản thân. Hiện tượng xin bùa phép, phát lộc trong các đình, chùa, miếu để được làm ăn phát đạt, dán tiền lên tượng Phật, Bồ-tát hoặc lấy tay xoa lên hình tượng rồi xoa vào thân mình, gọi đó là lộc của trời, Phật, Bồ-tát hay đấng bề trên.

 

Khi đến chùa thì chúng ta vái lạy cầu khẩn van xin đủ thứ chuyện trên đời, chúng ta cúng một ít tiền hay phẩm vật mà muốn Phật, Bồ-tát phải ban cho mình đủ thứ hết. Nếu những gì họ cầu xin mà được như ý thì  luật nhân quả sẽ không còn tồn tại. Rõ ràng từ con người cho đến muôn loài vật đều chịu sự chi phối của nhân quả, không có vật nào trên thế gian này thoát ngoài lý nhân quả.

 

Người không tu theo đạo Phật không tin lý nhân quả là lẽ đương nhiên, nhưng đã là Phật tử mà ta còn mê tín dị đoan lúc nào cũng cầu khẩn van xin, mong muốn đủ thứ, như vậy có xứng đáng là người Phật tử chân chính hay không?

 

Như ông nhà giàu trong câu chuyện trên, nhiều đời đã biết cúng chùa, làm phước, bố thí, nên hiện đời mới được giàu có…tuy nhiên do ông ta thiếu tu cho nên càng giàu có càng tham lam, bỏn sẻn rồi lại nghĩ mình giàu sang là do các bậc hiền Thánh Phật, Bồ tát ban cho.

 

Nếu chúng ta bố thí với tâm tham lam, ích kỷ, mong muốn việc bố thí để cho mình được giàu hơn, dĩ nhiên là vẫn có phước nhưng tâm tham đắm dính mắc vào đó ngày càng nặng hơn, càng bố thí ta càng mê muội.

 

Nếu chúng ta phóng sinh với tâm tham muốn, với tâm ham danh thì ta sẽ bỏ tiền ra mua con vật đó rồi nhốt lại, chờ ngày mai có lễ trong chùa mới tụng kinh cầu nguyện phóng sinh, mặc cho con vật thoi thóp trong chậu, trong lồng. Phóng sinh như vậy là vì muốn nhiều người khác được biết đến tên tuổi của mình, vô tình đánh mất ý nghĩa phóng sinh không phải vì lòng từ bi thương vật.

Phóng sinh đúng nghĩa của nó là khi thấy con vật đang bị con người định giết để làm thịt bán, ta vì lòng từ bi thương xót nó, muốn chúng được sống nên năn nỉ người định giết mua lại và thả nó. Phóng sinh như vậy mới đúng ý Phật, cách phóng sinh đó sẽ không làm cho người khác lợi dụng như những người mua bán chim cá trong các chùa.

Người Phật tử chân chính, trước tiên phải nghiên cứu lời Phật dạy rồi sau đó suy gẫm quán chiếu và ứng dụng tu hành, thì ta sẽ biết rõ mọi việc trên thế gian này đúng sai, phải quấy, tốt xấu, thật giả.

Chúng ta tin ở đây là niềm tin chân chính sau khi phát sinh trí tuệ, nhờ vậy ta tin sâu nhân quả, tin chính mình làm chủ được bản thân. Do đó khi ta thờ Phật, cúng Phật, lạy Phật vì lòng cung kính, vì sự biết ơn, để chúng ta cố gắng thực hành theo bằng cách phước huệ song tu cho đến khi nào bằng Phật mới thôi.

PHẬT DẠY THÂN NGƯỜI KHÓ ĐƯỢC, PHẬT PHÁP KHÓ NGHE

Phật dạy “thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Câu này mới nghe qua chúng ta thấy hơi vô lý, vì mình đã có thân người rồi. Ở đây đức Phật ý nói thân tương lai, chớ không phải thân hiện tại. Nếu sau này chúng ta chết đi, liệu có được tái sinh trở lại làm người hay không? Đó là sự thắc mắc của một số người, chúng ta cần phải quán chiếu và suy nghiệm để tìm ra nguyên nhân.

Thường thì một số học thuyết thế gian cho rằng chết là hết, mọi thứ đều trở về với cát bụi, không có nhân quả nghiệp báo tái sinh luân hồi nên họ mặc tình làm việc xấu ác mà không sợ tội. Đức Phật do tu chứng, nên thấy được cái vòng lẫn quẫn của con người, sau khi chết thân này sẽ hoại, nhưng tâm thức của chúng ta vẫn còn và tiếp tục tái sinh vào cõi lành hay cõi dữ, do thói quen đã gieo tạo.

Một đứa bé mới sinh ra, chưa được ai dạy bảo điều gì cả, mà chúng đã có những sở thích riêng biệt, đứa thì hay khóc la, đứa thì thích đồ chơi, đứa thì ham ăn, đứa thì thích ngủ…. Khi lớn lên đi học thầy cô giáo dạy bình đẳng như nhau, nhưng có đứa giỏi toán, đứa giỏi văn, đứa giỏi vật lý v.v…,vậy thì tại sao có sự khác biệt như thế?

Theo giáo lý nhà Phật có ba cõi 6 đường, hay còn gọi là lục đạo luân hồi, đó là các cõi Trời, Người, A tu la, Địa ngục Súc sinh, Ngạ quỹ, riêng các cõi Người và Trời là cõi lành dành cho chúng sinh biết giữ giới tu mười điều lành và ứng dụng tu tập thiền định. Chúng sinh sau khi mất đi, được tái sinh chỗ tốt hay xấu tùy theo nghiệp báo đã gây tạo trong hiện tại.

Các nghiệp lực do ta tạo ra trong hiện đời, sẽ đưa ta vào một trong sáu cõi luân hồi, điều đó còn tùy thuộc vào cận tử nghiệp, tức là nghiệp lúc cận kề với cái chết. Người đang làm ác nhưng khi gần chết khởi tâm mạnh mẽ về những việc làm tốt, có thể tái sinh đến cõi lành và ngược lại. Đức Phật dạy: có hai loại người có thể tái sinh thẳng mà không cần phải qua giai đoạn thân trung ấm trong 49 ngày.

 

Thứ nhất là loại người gây nhiều tội ác nặng như giết cha mẹ, giết người tu hành chân chính, kích động thù hằn gây chiến tranh xâm lăng chiếm đoạt tài nguyên thiên nhiên, giết người bừa bãi và bao gồm làm mười điều ác, thì sau khi chết, bị đọa thẳng vào Địa ngục, không thông qua thân trung ấm.

 

Và hạng người thứ hai tạo nhiều thiên duyên, phước huệ song tu, từ bi hỷ xả, làm lợi ích chúng sinh không biết mệt mỏi nhàm chán, tâm an nhiên tự tại trong mọi hoàn cảnh nên đã vượt qua sống chết luân hồi, ứng biến vô ngại. Còn lại sáu đường luân hồi sống chết sau khi mất đi, tùy theo thói quen huân tập mà có thể tái sinh vào cõi lành hay cõi dữ.

 

Để nói lên sự khó được làm người trở lại, đức Phật dùng hình ảnh một con rùa mù ở dưới đáy biển, cứ một trăm năm mới trồi lên mặt biển một lần, để tìm cách chui đầu vào một cái lỗ của một khúc cây. Một con rùa mù một trăm năm mới nổi lên mặt biển để tìm cách chui đầu vào bọng cây quả thật là rất khó! Chúng ta được làm người trở lại cũng khó khăn như vậy. Bởi gì thế gian này ít ai giữ được năm giới.

 

Có nhiều người thắc mắc, hiện nay dân số thế giới có khoảng trên 7 tỷ người so với thời Phật ra đời, con người đông hơn gấp mấy lần. Như vậy, Phật nói thân người khó được thì e rằng có sự nhầm lẫn. Chúng ta đọc kỷ các bản kinh, Phật nói trong bầu vũ trụ bao la này gồm có ba cõi 6 đường luân hồi. Chư thiên các cõi trời khi hết phước bị đọa xuống trần gian, nên số lượng con người cứ tăng dần. Số lượng con người trong cõi thế gian này là con số chúng ta có thể thống kê được. Nhưng thử hỏi có ai thống kê được số lượng các loài súc sinh từ lớn đến nhỏ từ trên không, mặt đất và dưới nước, vô số không thể tính đếm được, thì rõ ràng thân người khó được trong tương lai là có lý.

 

Chúng ta hãy tưởng tượng xem chỉ trong một ngôi làng nhỏ, số lượng dân trong ngôi làng có thể thống kê biết được, nhưng trong làng đó có bao nhiêu con trâu, bò, dê, chó, mèo, lợn, gà, vịt v.v.., đó mới chỉ là các loài vật được con người nuôi. Nhưng còn vô số tổ kiến, tổ ong, và không biết bao nhiêu ruồi, muỗi, bọ, rệp, giun, dế…v..v…hết thảy chúng cũng đều là súc sinh.

 

Rồi những loài dưới nước như các loại cá, ốc, lươn, cua ba ba, tôm, chạch và trên không trong rừng vô số các loài khác, chúng ta cũng không làm sao tính đếm được. Rõ ràng là ba cõi dưới do ngu si mê muội mà cá loài vật phải chịu sống theo nghiệp báo xấu, cho đến khi nào trả hết những quả xấu đó rồi mới được sinh làm người trở lại nhưng không có hiểu biết chân chính.

 

Thế còn trên những dãy núi, trong rừng sâu, ngoài biển cả, trên bầu trời còn có biết bao loài vật như hổ, báo, hươu, nai, gấu, sư tử…, loài thủy sản như cá voi, cá mập, bạch tuộc…, loài sâu bướm cùng các loại chim bay. Thật là nhiều vô số, không thể nào chúng ta tính đếm được, bởi vì  tỷ tỷ tỷ tỷ cũng không thể nào biểu thị được số lượng súc sinh trên quả đất này.

 

Tóm lại số lượng 7 tỷ con người trong thế gian này, thật là quá ít ỏi so với số lượng súc sinh hằng hà sa số không thể tính đếm được. Như vậy  trong thế giới sinh tử luân hồi, được trở lại làm người không phải là chuyện dễ dàng như mọi người tưởng, còn nếu lỡ bị đọa vào đường súc sinh thì biết bao giờ mới được trở lại làm người. Người Phật tử chân chính cần phải hiểu rõ và thông suốt chỗ này. Vậy muốn được làm người trở lại chúng ta phải làm sao?

Phật dạy, muốn đời sau được trở lại làm người thì ngay đời này phải giữ tròn năm điều đạo đức hay còn gọi là năm giới. Năm giới là: không sát sinh hại vật, không gian tham trộm cướp, sống chung thủy một vợ một chồng, không nói dối hại người, không uống rượu hoặc hút xì ke, ma túy, á phiện và đưa những chất độc hại vào trong cơ thể v.v…

Giới thứ nhất không sát sinh hại vật, trước tiên là không được giết người bằng cách tự tay giết, hoặc dùng miệng xúi bảo người khác giết hoặc thấy nghe giết nhau tâm sinh vui thích hoan hỷ đồng tình, đó gọi là phạm giới sát sinh tùy theo mức độ nặng nhẹ mà có thể bị hình phạt tương xứng. Ngoài ra, chúng ta hạn chế tối đa không được giết hại từ các con vật lớn cho đến những con nhỏ nhít, phần này không bắt buộc đối với người tại gia, nếu ai giữ được trọn vẹn thì tốt. Đó là giới thứ nhất.

Giới thứ hai không được gian tham trộm cướp. Trộm là lén lấy không cho người biết, canh me lấy, rình lấy. Cướp là công khai giành giựt lấy trước mặt mọi người, hoặc lợi dụng chức quyền để bóc lột người khác cũng gọi là cướp. Tội cướp so với tội ăn trộm nặng hơn gấp nhiều lần cho nên hình phạt cũng cao hơn.

Giới thứ ba không được tà dâm, tức là dan díu quan hệ với vợ chồng người khác, nghĩa là chúng ta đã có gia đình rồi, không được ngoại tình với người khác.

Giới thứ tư không được nói dối hại người. Nói dối là nói không đúng lẽ thật, có hai động cơ chính. Động cơ thứ nhất do tham nên nói dối gạt người để lấy lợi về mình. Động cơ thứ hai do tâm ác độc, người đó không phạm tội, không lỗi lầm nhưng ta vu oan, vu khống họ phạm tội này tội kia, để họ phải chịu tù đày khổ sở. Tóm lại nói dối hại người vì lòng tham, nói dối vì ác độc thì phạm tội.

Giới thứ năm không được uống rượu say sưa, không được hút cần sa và  hút chích các thứ như xì ke, ma túy… Phật dạy: những tai họa khi chúng ta phạm năm giới này.

Đã làm người, ai cũng quí trọng mạng sống của mình chớ sao chúng ta lại muốn giết hại kẻ khác, tất nhiên ai cũng phải biết quí trọng mạng sống của mình. Nếu chúng ta giết người thì mạng phải đền mạng, nhẹ thì bị tù từ năm mười năm cho đến chung thân, nặng thì chịu tử hình đó luật pháp thế gian xét xử. Còn luật nhân quả sẽ theo ta như bóng với hình để đền trả xứng đáng khi đủ nhân duyên.

Chúng ta biết quí trọng gìn giữ tài sản của mình, thì người khác cũng biết quí trọng. Nếu ta xâm phạm tài sản của người, nhất định họ sẽ tìm cách lấy lại bằng nhiều thủ đoạn. Nhân trộm cướp lường gạt của người khác, quả báo hiện đời bị tù tội, quả báo mai sau nghèo cùng khốn khổ.

Chúng ta biết quí trọng hạnh phúc gia đình mình, không muốn ai làm người thứ ba, nếu có ta sẽ đau khổ vô cùng có khi dẫn đến điên loạn hoặc quá ghen mà tìm cách giết hại tình địch. Ai có theo dõi báo chí thì sẽ biết rất nhiều vụ án xãy ra, do không biết sống chung thủy một vợ một chồng.

Chúng ta muốn thông minh, sáng suốt và có trí tuệ, nhưng lại uống nhiều rượu bia thì lâu ngày sẽ bị đần độn thôi, nếu quá mức sẽ dẫn đến bệnh thần kinh hay còn gọi là điên khùng. Hút cần sa, hút chích xì ke ma túy làm cho mình cảm thấy đê mê trong các cõi thần tiên và khi thiếu thì ta sẽ điên cuồng lên, bị hành hạ, bị vật vả rất là khốn khổ, nên ta chịu không nỗi, buộc lòng phải trộm cướp hoặc lường gạt của người khác để thỏa mãn thú vui ngu si này.

Phật khuyên người Phật tử chân chính giữ tròn năm giới, để được bảo đảm đời sau trở lại làm người có nhân cách đạo đức tốt. Nếu chúng ta hiện đời giữ tròn năm giới, thì hiện tại có ai dám khinh thường mình hay không? Hay còn khen ngợi nữa! Như người phạm tội ăn cắp hoặc cướp giựt của người khác, trước tiên là bị tù tội rồi sau đó bị mọi người coi thường khinh chê không dám gần gũi. Phật bảo, ai giữ được năm giới sẽ xứng đáng nhận danh hiệu làm người tốt trong hiện tại và mai sau.

Chúng ta ai cũng muốn mình sống thọ mà lại giàu sang phú quý. Sống dai mà lại có nhiều tiền của, vậy thì ta phải giữ trọn vẹn hai giới đầu là không giết hại và trộm cướp. Nhiều người sống dai lại có tiền dư dã nhưng mà lại xấu xí, vậy muốn đẹp đẽ thì phải giữ giới không tà dâm và biết tiết chế trong tình dục.

Chúng ta được thân người sống dai, giàu sang, đẹp đẽ mà bị cái tật nói năng khó nghe hay câm ngọng, vậy thì có ai chịu không? Chắc chắn là không rồi, nên chúng ta phải giữ giới không nói dối hại người thì đời sau nói năng lưu loát, được mọi nguời mến thương và tin kính.

Rồi có một điều nữa có ai thích mình bị đần độn ngu tối hay không? Bởi do chúng ta hiện đời uống rượu say sưa hoặc hút chích xì ke ma túy là nhân dẫn đến bệnh thần kinh hay còn gọi là điên khùng.

Phật dạy thân người khó được, nên chúng ta muốn đời sau được làm người toàn vẹn thì phải cố gắng giữ gìn năm giới. Được như vậy thì chúng ta dám chắc chắn rằng, mình sẽ là người tốt trong hiện tại và mai sau.

Tuy nhiên ngày nay chúng ta được thân người, nhưng mỗi người do tích lũy nghiệp báo khác nhau, cho nên sự suy nghĩ, nói năng, làm việc của mỗi người cũng khác không ai giống ai.

Trong thế gian này có được bao nhiêu người giữ tròn năm giới. Chính vì thế, khi mất thân này phải rơi vào ba đường dữ địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, nhiều hơn được trở lại làm người là lẽ đương nhiên. Cho nên Phật nói thân người rất khó được, là vậy đó.

Người xưa nói:  

                      Ngàn năm cây sắt trổ hoa còn dễ,

                     Thân người nếu mất đi, khó được lại.

Đây là một ẩn dụ sâu sắc nói lên ý nghĩa hiếm có khó được, tuy nhiên cây sắt ngàn năm cũng có thể trổ bông, còn thân người mất đi khó tìm lại được, vì đại đa số con người trên thế giới này ít giữ năm giới. Tức là khó hơn cây sắt trổ hoa nữa, cây sắt mà trổ hoa được vô lý quá. Đây chỉ là một ẩn dụ sâu sắc, để giúp người tu chúng ta phải tỉnh giác trong từng phút giây mà cố gắng giữ tròn giới hạnh. Như chúng ta đã biết, bây giờ được làm người chắc nhiều kiếp trước mình có tu hành giữ giới, nên mới  được nghe Phật pháp.

Vậy mà có một số người tự hủy hoại thân này, hể có chuyện gì buồn phiền liền tức giận mà tự tử, vì họ nghĩ rằng chết là hết khổ. Đó là cái thấy biết sai lầm của người thiếu sáng suốt, họ không biết chết như vậy là phá hủy sự sống của chính mình, càng bị đọa vào chỗ tối tăm bức bách chịu nhiều đau khổ không có ngày thôi dứt.

Một ví dụ để cho chúng ta thấy rõ điều này, như con trâu mỗi khi bị chủ tròng ách vô cổ bắt kéo xe. Nó rất ghét cái ách, nên dùng cái sừng của nó quật cho gẫy cái ách đi. Nó không ngờ gẫy ách cũ, ông chủ sẽ làm ách mới còn chắc hơn. Kiếp con trâu là sống theo tập quán nghiệp, chừng nào trả hết nợ cũ thì hết nghiệp kéo xe.

Có được thân người rồi mà lại gặp được Phật pháp nữa, đó là phước nhiều đời của chúng ta. Tuy nhiên Phật pháp rất khó nghe, bởi vì sao?

Được làm người đã khó rồi, nhưng được nghe Phật pháp để biết cách tu hành lại càng khó hơn. Bởi có nhiều người cả đời không biết đến hai chữ Phật pháp là gì, hoặc có nghe Phật pháp nhưng lại không hiểu, nên nói khó nghe. Như chúng ta đã biết, Phật pháp nói lẽ thật, chỉ đúng lẽ thật nhưng ngược lại với lòng tham lam ích kỷ của con người, nên chúng ta khó tiếp nhận, khó nghe là vậy đó.

Phật pháp khó nghe, cho nên người thiếu phước duyên ít có cơ hội nghe pháp, nếu có nghe cũng không hiểu biết gì. Bây giờ được gặp Phật pháp,  chúng ta phải cố gắng học hỏi, khi nghe rồi chúng ta phải quán chiếu, chiêm nghiệm và sau đó biết áp dụng vào trong đời sống hằng ngày. Đó là tu.

Chúng ta phải học theo cách Phật dạy tam huệ học là “văn, tư, tu”. “Văn” là nghe lời Phật dạy rồi sau đó mới suy nghĩ, quán chiếu, nghiệm xét để biết được sự thật-giả phân minh, đến khi đó ta mới hành trì bằng cách buông xả các tâm niệm xấu ác và sửa đổi những hành vi sai trái, làm tổn hại người và vật.

 

Khi chúng ta đã biết cách phát huy tốt năng lực của bản thân, thấy được giá trị thiết thực là phải nương nhờ vào nhau mới bảo tồn mạng sống thì chúng ta cần phải có trách nhiệm yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau bằng tình người trong cuộc sống.

Tu theo đạo Phật không bắt buộc quý Phật tử nghe rồi tin liền, mà khi nghe rồi chúng ta phải quán chiếu suy ngẫm, khi thấy biết đúng lẽ thật rồi mới tin và cố gắng thực hành theo, đó là niềm tin chân chính sau khi phát sinh trí tuệ.

Đa số đàn ông nặng về nghiệp rượu chè cờ bạc, đàn điếm, còn bên nữ nặng nghiệp nói dối hay ganh ghét tật đố. Nhiều người nữ buôn bán ngoài chợ than rằng không nói dối, khó mua bán quá. Chúng ta có tật hay nói thách quá đáng trả kiểu nào cũng dính, người Phật chân chính phải nói đúng giá, để cho khách hàng tin tưởng lần sau còn đến mua tiếp  và giới thiệu nhiều người khác tới mua nữa.

Chúng ta ban đầu nói dối lừa gạt người, vì họ không biết giá cả rõ ràng nên mua, sau này biết rồi họ không đến mua nữa, như vậy là thiệt thòi cho ta. Cho nên người khéo tu sẽ biết cách làm ăn chân chính và vẫn được lòng nhiều người nhờ vậy mua may bán đắt. Nếu chúng ta phạm giới lâu ngày sẽ trở thành thói quen xấu nói dối vì quá tham lam, thà chấp nhận chịu lời ít một chút mà giữ mối mua bán được lâu dài.

Phật pháp rất khó nghe là vì đi ngược lại với sự ham muốn của chính mình, mình tham lam mà Phật dạy phải bớt tham và dứt lìa tham, chẳng những ta không tham mà còn phải biết bố thí cúng dường, giúp đỡ người khác nữa. Phật pháp rất khó nghe, đối với người chưa tín tâm Tam bảo, chưa tin sâu nhân quả, khi chúng ta đã tin rồi thì sẽ tìm cách dứt ác làm lành, để chuyển hóa nỗi khổ niềm đau thành an vui hạnh phúc, ngay tại đây và bây giờ.

Như quí Phật tử khi nghe pháp hay đọc kinh Phật thì phải suy gẫm, quán chiếu và ứng dụng tu hành, tuy bước đầu thấy dường như khó, nhưng sau này khi trí tuệ phát sinh, quý vị sẽ biết cách hoàn thiện chính mình. Phật tử tại gia trong hoàn cảnh còn nhiều ràng buộc khó khăn, không thể tu được nhiều như Tăng Ni, chỉ cần cố gắng mỗi ngày làm một hai điều thiện cũng tốt rồi.

Khi nghe pháp Phật dạy thân này già bệnh chết, ai cũng biết nó sẽ bại hoại vậy mà không chịu chuẩn bị hành trang cho mai sau, chúng ta chờ nó sắp hoại rồi mới than trời trách đất sau con khổ quá vậy nè. Trời Phật  sao không linh hiển cứu con, cứu làm sau được dù thân thuộc như cha mẹ, vợ chồng, con cái cũng đành phải chịu thôi.

Kinh Phật dạy: Chỉ có ta làm điều tội lỗi, chỉ có ta làm điều trong sạch, tội lỗi hay trong sạch đều do ta quyết định, người Phật tử chân chính sẽ biết chọn cho mình một hướng đi tốt đẹp. Chính chúng ta tự làm khổ mình, chứ không có ai khác giáng họa cho ta.

Phật nói cuộc đời là vô thường, mạng người sống trong hơi thở, thở ra mà không thở vô thì coi như thân này tan hoại. Vậy mà ít ai chịu chấp nhận mạng người trong hơi thở, cứ nghĩ rằng đời người sống cả trăm năm,  thậm chí nhiều người tìm luyện trường sinh bất tử, nhưng có ai sống đời không chết đâu. Thở ra mà không thở vào là chết ngay, đó là một lẽ thật mà ít ai chịu tin. Thế nên Phật pháp khó nghe là vậy, đi ngược lại suy nghĩ và lòng ham muốn của con người.

Bây giờ chúng ta đã có duyên gặp Phật pháp rồi, phải ráng nghe những lẽ thật ấy để phá sự chấp trước thân tâm mình làm ngã, khi chúng ta thấy biết đúng như thật về thân, về mạng sống, ta sẽ giảm bớt mọi nhu cầu không cần thiết, nhờ vậy ta dễ dàng buông xả phiền não khổ đau.

Khi biết thân người khó được, Phật pháp khó nghe ta càng phải cố gắng học hỏi và tu tập, để ngày càng sống tốt hơn. Đó là chúng ta biết dùng thân này, làm lợi ích cho mình và người khác, nếu chúng ta chỉ lo ăn, ngủ, mặc, ở sau cho được đầy đủ thoải mái…đến khi gần đất xa trời không biết mình đi về đâu, thật đáng tội nghiệp cho ta quá chừng?

Gặp một đứa trẻ chạy chơi vấp té, chúng ta đỡ nó lên và an ủi đôi lời,  đâu có tốn đồng xu cắc bạc nào, mà còn gây được nhiều thiện cảm với đứa bé. Thấy một bà cụ già đang muốn qua đường mà không có người dìu dắt, chúng ta chỉ cần dắt tay đưa bà qua đường, việc làm này đâu có tốn tiền hao của, chỉ một chút công nhỏ thôi, ta sẽ giúp cho bà già bớt lo lắng sợ hãi bị tai nạn.

Đối với ý nghĩ của mình, chúng ta lúc nào cũng khởi lên tâm niệm trong sáng, miệng nói lời an ủi sẻ chia, khiến mọi người giảm bớt buồn phiền và sống vui vẻ hơn. Thân hành động giúp đỡ người khác mỗi khi có việc cần thiết, không hề sợ khó nhọc. Đó là chúng ta khéo dùng thân tạm bợ này để làm lợi ích cho người khác, mà ta vẫn bình yên hạnh phúc.

Tóm lại, là người Phật tử chân chính, chúng ta luôn lắng nghe lời Phật dạy rồi sau đó quán chiếu suy gẫm nghĩa lý, biết được thật giả rõ ràng nên việc tu sửa của ta cũng nhẹ nhàng, không khó khăn gì. Kế đến, chúng ta vận dụng sự hiểu biết của mình để giúp cho nhiều người khác có sự hiểu biết đúng đắn mà cùng tu tập với chúng ta.

Đó là ta biết ứng dụng lời Phật dạy vào trong đời sống hằng ngày, để mình luôn làm tròn trách nhiệm đối với gia đình người thân và đóng góp lợi ích cho xã hội bằng trái tim yêu thương và hiểu biết, thì thế gian này sẽ là thiên đường hạnh phúc.

 

LỜI PHẬT DẠY SỐNG NGAY GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

 

Thế gian thường hay nói niềm vui chóng qua mau, nỗi buồn thường lưu dấu lâu dài. Đó là một sự thật nhưng ít ai nghĩ đến, con người ta thường hay tiếc nuối những cuộc vui đã qua và muốn giữ mãi hạnh phúc được lâu dài mà không chịu gieo trồng phước đức. Đến khi việc đau buồn đến, họ chới với, chơi vơi trong cô đơn tuyệt vọng, để rồi chấp nhận cuộc đời đen tối mà không biết tìm cách để vượt qua.

 

Bộn bề với bao công việc giữa cuộc sống là những thói quen của một ngày, cứ được lặp đi lặp lại nhiều lần như chiếc đồng hồ đếm nhịp thời gian. Rồi sự sống của chúng ta, ai cũng muốn được tồn tại lâu dài nhưng dòng đời đâu cho phép như thế … vì có sự sống là có chết chóc… có sum hợp thì có chia lìa, có được thì sẽ mất đi… Tất cả mọi thứ đều chịu sự chi phối của vô thường, nên những điều mong muốn mà không được như ý sẽ làm cho chúng ta khổ. Sự sống có thể đem đến cho chúng ta nhiều an vui và hạnh phúc, song cũng có những lúc chúng ta bất an lo lắng, trong mệt mỏi chán chường mà dẫn đến tuyệt vọng.

 

Trong cuộc sống của chúng ta, ai cũng phải ít nhiều gì đó cảm nhận những sự đau đớn, khổ não do bệnh hoạn và tai nạn gây ra nơi thân tâm của chính mình. Chính đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng nói đến những sự khổ về vật chất lẫn tinh thần bởi do nhiều nguyên nhân. Và con người ta bắt đầu bệnh khổ từ lúc mới sinh ra, bởi những nghiệp duyên trong quá khứ đã tác động đến kiếp hiện tại.

 

Đức Phật chỉ dạy rằng cứu chữa cho tâm quan trọng hơn là cho thân, vì đó là nguyên nhân gây ra bao điều tội lỗi. Người có tâm từ bi rộng lớn và hành vi thiện lành, tâm sẽ ít bị vẫn đục bởi phiền não tham, sân, si chi phối. Nếu chúng ta mỗi ngày tỉnh giác từng ý nghĩ, lời nói và hành động của mình, thì ta sẽ biết cách làm chủ bản thân để ngày càng hoàn thiện chính mình hơn về mọi mặt.

 

Người có thân thể khỏe mạnh nhưng cứ để cho tâm tham lam, sân giận, si mê, ganh ghét, tật đố chi phối thì sẽ nhận hậu quả đau khổ đời này và vô số kiếp về sau. Thân chúng ta bệnh thì đau nhức, khó chịu nhưng tâm bệnh thì làm cho chúng ta bị dằn dặt, khổ sở não nề có khi dẫn đến tuyệt vọng mà quyên sinh tự tử. Người biết tu tuy thân vẫn chịu sự đau đớn của bệnh hoạn, nhưng tâm không bị khốn khổ vì đã thấu suốt được lý nhân quả.

 

Vô minh về nguồn gốc ban đầu, chúng ta thử nhìn trong một vòng tròn thì không thể tìm thấy điểm phát xuất khởi đầu. Một số học thuyết thì cho rằng có điểm khởi đầu, còn các nhà khoa học đặt ra giả thuyết về nguồn gốc của trái đất, và vũ trụ. Vấn đề của sự khởi đầu về tất cả mọi hiện tượng sự vật trong bầu vũ trụ bao la này, khó có học thuyết nào xác định rõ ràng. Riêng về đạo Phật nhận định: “cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt” vì nó trùng trùng duyên khởi theo nguyên lý nhân duyên quả. Nếu chúng ta tự đặt ra câu hỏi, “khổ đau từ đâu đến và con người từ đâu có”?

 

Kết quả mà ta đang thọ nhận quả tốt xấu trong hiện tại là do nhân gây ra trước đó. Và quả này ngược lại sẽ trở thành nhân cho quả tiếp theo tương tục từ đời này sang kiếp khác theo nguyên lý duyên khởi không có ngày cùng. Khi có sự sống, chúng ta vừa thọ nhận quả và không ngừng tạo ra nhân mới tiếp nối, rõ ràng nhân quả xoay chuyển liên tục theo nguyên lý “cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không”.

 

Những khổ não bị tác động trong thực tế.

 

a- Môi trường: Ngay nơi sự sống của chúng ta, với bầu trời quang đãng, không khí trong lành, vẫn có nhiều chất ô nhiễm hay mầm bệnh trong không khí bởi do con người tạo ra, do lòng tham lam, ích kỷ. Môi trường có thể là một nguyên nhân lớn trong việc làm ảnh hưởng đến đời sống  con người.

 

b- Các mối liên hệ: Các mối liên hệ trong cuộc sống có thể mang đến cho chúng ta nhiều phiền muộn khổ đau. Vậy thì ai sẽ chịu trách nhiệm cho phần lớn về những khổ não của chúng ta? Số đông ai cũng nghĩ rằng chính là kẻ thù đã làm cho chúng ta khổ não, tuy nhiên đó chỉ là một phần mà thôi.

 

Người có thể làm cho chúng ta khổ não chính là vợ chồng, con cái hoặc những người họ hàng, bạn bè hay bạn đồng nghiệp của ta. Người mà chúng ta thường hay bực bội khó chịu chính là những người thân thiết nhất của ta.

 

Hàng ngày chúng ta không chỉ phải đương đầu với gia đình người thân mà còn biết bao nhiêu người khác nữa, có người ta biết, có người ta không biết. Có người giúp đỡ ta, có người muốn cản trở ta. Vì thói quen của chúng sinh là tham lam, sân giận, si mê, ganh ghét, tật đố và dẫn đến hiềm hận, nên mới nói lời hằn học khó chịu và sẵn sàng giết hại lẫn nhau không thương tiếc.

 

c- Xáo trộn cảm xúc: Kẻ thù lớn nhất của chúng ta không phải là những kẻ đối đầu, mà chính là chủ nghĩa cá nhân. Sở dĩ chúng ta phiền muộn khổ đau nhiều, phần lớn là do sự vọng động phân biệt bởi ý thức hệ trong ta. Chúng ta luôn thay đổi cảm xúc trong từng giây phút bỡi những toan tính, do ta chấp thân tâm này làm ngã. Chúng ta hay lo lắng về được mất, phải trái, đúng sai, hơn thua, tốt xấu, nên mới sinh ra tham lam, sân giận, và si mê để rồi chịu nhiều phiền muộn khổ đau.

 

Khi tâm lý bị xáo trộn làm cho chúng ta hoang mang lo sợ, làm gia tăng thêm phiền muộn khổ đau. Mỗi khi có sự cố xãy ra như vậy, ta cần phải  quán chiếu, tư duy sâu sắc, thì mới đủ sức chuyển hóa tham, sân, si thành vô lượng trí tuệ, từ bi. Khi bị tham lam lam ích kỷ sai sử, ta có thể quán sát như sau: “Tôi đang tham, tôi biết đang tham, tôi biết có những ham muốn đang làm mờ tâm trí tôi”. Khi quán sát như vậy thì tự nhiên trạng thái tâm tham sẽ dần hồi biết mất.

 

Chúng ta hãy nhìn thẳng vào mọi diễn biến đang xãy ra như là một thực tại nhiệm mầu. Hãy sống cho những giờ phút ngày hôm nay, cái gì đến nó sẽ đến, dù ta có không muốn cũng không được. Phật dạy: Quá khứ không truy tìm, tương lai không ước vọng, chỉ có pháp hiện tại, tuệ quán chính là đây.

 

Đức Phật muốn nhắc nhở chúng ta rằng, nhận thức và hiểu biết của chúng ta còn hạn hẹp lắm, nếu ta cứ tiếc nuối quá khứ tốt mà đánh mất chính mình trong hiện tại, còn nhớ lại quá khứ đau buồn khiến ta bi lụy khổ đau.

 

Bởi quá khứ đã qua rồi chúng ta có muốn quay lại để nắm bắt nó cũng không được, suy nghĩ tiếc nuối về nó chỉ thêm buồn phiền. Tương lai còn ở chân trời xa tít, có ai biết nó sẽ ra sao mà mơ tưởng viễn vông không thực tế. Ta chỉ tin nhân quả, buông xả những ý niệm đã qua, sống ngay với giây phút hiện tại, ta tham, ta giận, ta si mê, ta đều biết rõ, nhờ vậy ta sẽ cảm thấy an ổn nhẹ nhàng.

Nếu ta không biết chấp nhận hiện tại như nó đang là, để sống bình thản an nhiên với những được mất, hơn thua của dòng đời thì dung sắc của ta sẽ nhanh chóng héo tàn như lau xanh lìa cành.

Một tinh thần giáo dục nhân bản mà Thế Tôn truyền dạy là tinh thần biết sống và bằng lòng với những gì đang có trong hiện tại. Phật dạy: Không than việc đã qua, không mong việc sắp tới, sống ngay với hiện tại, do vậy sắc tốt tươi. Do mong việc sắp tới, do than việc đã qua, nên kẻ ngu héo mòn, như lau xanh lìa cành.

Với kiếp sống của con người, nếu chúng ta không có hiểu biết chân chính, không tin sâu nhân quả thì ta sẽ than trời trách đất, oán ghét ghét người thân, đổ thừa cho xã hội mà ta vô tình đánh mất chính mình.

 

Nếu đi sâu vào ngành tâm lý trị liệu, họ phân tích rằng phần lớn các cảm xúc khổ đau, đều do con người suy tưởng quá nhiều mà thất vọng, bởi những chuyện bất như ý.

 

Khi ta lỡ làm một điều gì đó lầm lỗi, ta cảm thấy ân hận và hối tiếc, thì như vậy sẽ làm cho ta càng bi thương buồn khổ thêm, tốt nhất là ta hãy xem xét lại mình đã làm gì đúng hay sai? Nếu thực sự đó là một hành động làm tổn hại người khác, thì ta hãy quán sát như sau: “Ta đã hành động không đúng lẽ phải rồi, nên ta xấu hổ và ăn năn sám hối”. Nhờ vậy ta sẽ bớt phiền não, ân hận, ray rứt và tiếc nuối.

 

Chúng ta thường có ước muốn được phát triển và thành công trọn vẹn. Người có tâm lý này luôn muốn khuếch trương cái mình có. Họ muốn chứng tỏ với mọi người, tầm ảnh hưởng của mình được nhân loại chú ý và quan tâm. Người ta cố sức tạo danh thơm tiếng tốt để mọi người biết đến mình nhiều hơn. Một người vợ có thể cố gắng điều khiển chồng hay ngược lại. Lòng tham muốn thống trị người khác thể hiện tâm lý tham lam và ích kỷ.

 

Chúng ta thường khi đạt được một mục đích nào đó, thì lòng tự mãn phát sinh. Thái độ tự mãn đó, dễ làm cho con người có thể khinh thường người khác. Người quá tự mãn về chính mình, dễ xúc phạm đến người khác làm cho người đó cảm thấy bực tức khó chịu, nén cơn giận trong lòng mà ôm mối hận thù chờ cơ hội trả đũa.

 

Khi chúng ta không đạt được một mục đích gì đó thì sinh ra tâm chán nản, mặc cảm tự ti do không còn tự tin nơi bản thân mình. Người như thế hay có khuynh hướng đổ lỗi cho người khác. Chúng ta sẽ thay đổi tư duy và dùng các phương pháp để thực hành.

 

Trước tiên chúng ta sẽ tư duy về nhân quả, nó là một thực tại thiết thực trong suốt cuộc sống, bất cứ chúng ta làm gì đều cũng theo quy luật nhân duyên quả. Dựa trên cơ sở nhân quả, chúng ta tin rằng chết không phải là hết mà chỉ thay hình đổi dạng tùy theo nghiệp báo đã gieo tạo trong hiện tại, để cho ra kết quả trong tương lai. Khi tin có kiếp sống luân hồi, chúng ta sẽ dễ dàng chấp nhận những gì đến với ta, dù tốt hay xấu. 

 

Tất cả các pháp sinh diệt đổi thay, là do nhân duyên tích lũy tương tác của nhiều yếu tố khác nhau, theo nguyên lý cái này không thì cái kia không, cái này có thì cái kia có. Nhân của hoa là hạt giống, nhưng đất, nước, ánh sáng mặt trời và sự chăm sóc của con người thì cây mới có thể sống. Không đảm bảo đầy đủ các yếu tố trên sẽ khiến cây hoa khô héo, rồi từ từ chết đi.

 

Khi chúng ta đạt được điều gì mong muốn, ta không nên quá vui mừng, hoặc quá hãnh diện tự hào. Chúng ta cũng nên biết rằng những gì hôm nay mình thực hiện được, rồi một ngày nào đó cũng sẽ đổi thay, do đó ta không quá thất vọng khi đối mặt với những chướng duyên hay nghịch cảnh. Khi tâm có sự định tĩnh và sáng suốt, sẽ giúp cho ta dễ dàng buông xả các tâm niệm xấu ác.

 

Ai cũng muốn mọi người đối xử tốt đối với mình, nhưng lại ít khi nghĩ đến việc giúp đỡ người khác. Có nhiều người khi lầm lỗi thì đòi hỏi phải được tha thứ, nhưng khi thấy người khác làm lỗi, thì họ sẽ không chấp nhận mà còn phê phán chỉ trích mạnh mẽ.

 

Chúng ta muốn được an nhiên tự tại trong mọi hoàn cảnh, ta cần phải thể nhập tâm thanh tịnh sáng suốt. Khi được như thế ta mới có thể từ bi, đồng cảm, tha thứ và biết quan tâm đến người khác với tinh thần không vụ lợi.

 

Phật dạy:"Quá khứ đã qua, tương lai chưa đến, hãy sống trong giây phút hiện tại". Nếu ta quá ưu tư tiếc nuối về quá khứ, hay lo nghĩ mơ mộng về tương lai, để luôn hoang mang lo sợ ta sẽ đánh mất mình trong hiện tại bởi được mất, hơn thua, thành công hay thất bại.

 

PHẬT DẠY CÁCH SỐNG CHUNG VỚI NGƯỜI KHÓ CHỊU

Trong cuộc sống của chúng ta, ai cũng có thể đã từng gặp phải những chuyện đau thương khốn đốn dẫn đến sự bực bội, khó chịu, phiền muộn khổ đau. Những người khó chịu, họ muốn làm cho mọi chuyện trở nên căng thẳng, để tạo ra sự hiểu lầm hoặc mối hiềm thù trực tiếp bằng nhiều hình thức khác nhau. Người khó chịu là người hay kiếm chuyện  gây gổ, làm cho mọi người luôn bực tức và phiền não bức bách.

Như chúng ta ai cũng có thể biết sự đụng chạm giữa con cái đối với cha mẹ, vợ chồng, anh em, bạn bè và đồng nghiệp, ngay khi xảy ra sự việc đau buồn chúng ta do không biết cách kiềm chế bản thân, nên dễ dàng trút đổ những phiền muộn vào người khác. Khi trong ta trỗi dậy những cảm xúc khổ đau, ta dễ dàng bươi móc lỗi của người khác và công khai chỉ trích những sai phạm của họ, trước mặt mọi người.

Trong cuộc sống chúng ta ai cũng có thể đóng vai trò của một người khó chịu, bởi vì đã làm người thì chắc chắn còn nhiều khiếm khuyết sai lầm dễ dẫn đến làm người khác phiền muộn đau khổ. Bây giờ chúng ta có thể nói ra một vài loại người khó chịu.

Có một loại người rất khó chịu vì cuồng tín, họ tin vào đấng bề trên, họ làm việc say mê và thậm chí giết người vô tội vạ, họ cho rằng chết vì đạo sẽ được lên thiên đàng hưởng phước báo tối cao. Phụ nữ đối với họ chỉ là vật phụ thuộc, có nhiệm vụ sinh con đẻ cái và đáp ứng nhu cầu sung sướng cho họ.

Dạng người khó chịu này không chấp nhận ai, họ chỉ tôn thờ đấng bề trên của họ và muốn mọi người phải theo họ. Nếu họ nắm quyền hành trong tay, chúng ta sẽ không có chọn lựa khác, theo thì sống không theo thì chết, chỉ có vậy thôi!

Một loại nữa cho rằng chết là hết, không có nhân quả nghiệp báo nên khi sống họ mặc tình tạo tác gây ra nhiều nỗi khổ niềm đau cho người khác vì quan niệm mọi thứ sẽ trở về cát bụi. Chính vì vậy, dạng người khó chịu này nếu có ý thức một chút họ sẽ là những công thần dấn thân, hy sinh cho sự nghiệp chung mà sống trung thành với lý tưởng đó.

Người khó chịu theo dạng này nếu không có hiểu biết chân chính sẽ không chấp nhận học thuyết sống chết luân hồi tùy theo nghiệp báo tốt xấu đã gieo tạo. Họ cho rằng tôn giáo là thuốc phiện của nhân loại nên dẫn đến nhiều sai lầm đáng trách, làm tổn hại cho nhiều người.

Một loại người khó chịu khác, suốt đời họ mong muốn đòi hỏi ai cũng phải là một người hoàn hảo, không sai phạm, nên họ rất khó chịu khi thấy người khác phạm phải lỗi lầm.

Người khó chịu theo dạng này, họ muốn mọi người cùng theo một khuôn mẫu với mình, ai làm khác đi thì không chịu, họ không hiểu quy luật duyên sinh nhân quả và sự huân tập của mọi người cũng khác nhau nên có sự sai biệt. Đó là sự chấp trước, chỉ thấy mình là người tốt còn mọi người đều xấu hết, nên cuối cùng họ bất mãn và rơi vào tuyệt vọng, họ không muốn chung sống với mọi người.

Có loại người khó chịu vì họ đang gặp hoàn cảnh bất hạnh, không tìm ra lối thoát như bệnh nan y, gia đình đổ vỡ tan nát, vợ hoặc chồng bỏ rơi, con cái chết chóc, sự nghiệp trắng tay…

Những người khó chịu là hạng người đang bị dính mắc bởi phiền não tham sân si, do họ chấp thân tâm này làm ngã nên muốn chiếm hữu mọi thứ, nhất là các ông vua thời phong kiến, đó là nói về người khó chịu thời xa xưa. Người khó chịu thời nay lại tinh vi hơn nữa, nhờ trình độ khoa học tiến bộ nên các lãnh tụ cường quốc chiếm đoạt tài nguyên thiên nhiên của các nước chậm tiến bộ, lạc hậu.

Họ thường tự xưng mình là người trị vì thiên hạ, vì không chịu khuất phục họ, theo họ hoặc là có thái độ không bằng lòng với họ, là họ tìm cách triệt buộc ngay, lịch sử thế giới loài người đã cho chúng ta thấy rõ điều đó. Thế giới ngày hôm nay, sở dĩ chiến tranh binh đao tàn sát giết hại lẫn nhau là bởi do những người khó chịu này.

Với người không có hiểu biết chân chính, không tin tin tâm mình là Phật, là chủ nhân ông của bao điều họa phúc, họ sống để tham lam, ích kỷ giành giựt chiếm đoạt, để có được nhiều hơn, bất kể mọi người khổ đau như thế nào họ không cần biết, họ chỉ biết rằng họ được ăn trên ngồi trước và nắm quyền sinh sát trong tay.

Họ cho rằng đó ân sủng thượng đế đã dành cho họ. Cuộc sống của họ luôn tạo ra nỗi khổ niềm đau cho mọi người vì quan niệm sai lầm, bởi có một thần linh thượng đế ban phước giáng họa, sắp đặt mọi việc.

 

Nắm lấy, kéo về mình, cất giữ chất chứa là một thói quen xấu do ngu si chấp ngã thấy mình là trung tâm của vũ trụ. Con người ngay từ nhỏ, khi mới chập chững biết bò, chúng ta cố trườn tới để nắm lấy một đồ vật trước mặt. Nếu nắm lấy được thì bỏ vào miệng không biết phân biệt dơ sạch. Lớn lên, chúng ta nắm bắt chấp giữ và càng khó chịu nhiều hơn khi cảm thấy mình bị thiệt thòi hơn người khác.

 

Do chấp ngã chúng ta cố nắm lấy bám giữ, tiếc nuối rồi cảm thấy bực bội, khó chịu và nỗi tam bành lục tặc để làm người khác đau khổ. Khi cái ta lớn mạnh mà không được hài lòng vừa ý thì sự thất vọng càng nhiều, và phiền muộn khổ đau không có ngày thôi dứt.

 

Chúng ta cũng cần phải hiểu rõ, không nắm giữ không có nghĩa là không có gì hết, không có cả một cái chén để ăn cơm. Chúng ta vẫn cầm cái ly để uống nước, nhưng chúng ta không dính mắc vào nó, khi lỡ làm bể cái ly chúng ta vẫn không tiếc rẻ, bực tức hay nỗi giận cáu gắt hoặc mắng chửi đánh đập người khác.

Chấp là nguồn gốc sinh ra mọi hệ lụy khổ đau cho con người, dù đó là chấp thiện. Chúng ta không thể muốn mọi người phải giống như mình, càng không thể dùng áp lực để buộc họ phải thay đổi. Cách duy nhất chúng ta có thể giúp họ là biết quay lại chính mình, tìm lại năng lực sẵn có của ta để có sự cảm thông, bao dung và tha thứ mà thương yêu đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau.

Chúng ta hãy cảm thông cho người khó chịu với mình, vì họ không làm chủ được bản thân, họ đang đau khổ tột cùng. Vào những lúc như thế họ sẽ trút đổ mọi bực tức, giận hờn cho người khác, thậm chí họ thượng chân hạ cẳng tạo ra nỗi khổ niềm đau cho chính gia đình của họ.

Người khó chịu không biết cách kiềm chế mình, nên họ lại thêm dầu vào lửa khiến cho sự việc càng thêm oan trái, bởi họ đang trong cơn tuyệt vọng và muốn có sự giúp đỡ. Chúng ta thường cho rằng người này đang ‘giận cá chém thớt’.

Nếu quán chiếu sâu sắc, chúng ta sẽ thấy rằng họ đang bế tắc, họ đang trong cơn đau khổ tột cùng không có lối thoát, ta càng phải thương xót họ nhiều hơn. Trong lúc này, dù họ có cố gắng kiềm chế bằng nhiều cách đi nữa, nhưng lời nói của họ khi phát ra giống như dao bén cứa vào từng thớ thịt của người khác.

Khi chúng ta phải đối diện với người khó chịu thường xuyên, nếu không khuyên được họ, tốt hơn ta nên tìm cách tránh xa họ, tránh voi chẳng xấu mặt nào mà. Nhưng vì duyên sự, chúng ta không thể tránh được họ thì ta phải làm sao đây? Lúc này mình phải học cách, chấp nhận đương đầu với hoàn cảnh không mấy hài lòng vừa ý này.

Chúng ta sẽ thấy mình đang rơi vào hoàn cảnh éo le, ta sẽ bị phê bình chỉ trích nặng lời bởi người khó chịu kia, ngay lúc này nếu ta không tỉnh giác thì mọi thứ sẽ đổ vỡ. Nhờ tỉnh giác trong từng phút giây, chúng ta biết mình đang đối diện với lửa sân hận của người khác, nên ta bình tĩnh an nhiên tìm ra lối thoát.

Chúng ta phải ý thức rằng và có sự cảm thông cho người kia, bởi họ đang trong cơn tuyệt vọng, chúng ta dùng tuệ giác của Thế tôn để soi sáng lại chính mình mà có sự cảm thông và tha thứ cho họ. Chúng ta hãy quán sát thân này nhân duyên hòa hợp giả có không thật thể, cái gì là ta, là của ta, ta không chấp thân tâm này làm ngã, thì chẳng có thứ gì làm cho ta lay động mà phiền muộn khổ đau.

Khi đối diện với người khó chịu mình phải biết cách lắng nghe, để tìm ra nguyên nhân, họ đang nói gì, họ đang muốn gì, họ đang tiếc nuối về quá khứ, họ đang mơ mộng đến tương lai mà đánh mất mình trong hiện tại, họ không biết mọi việc tốt xấu, nên hư, thành bại đều do mình tạo ra.

Vào những lúc căng thẳng như thế, chúng ta phải dùng trí tuệ thấy biết đúng như thật để lắng nghe tâm tư của họ, họ đang muốn giải tỏa hết mọi áp lực từ bên ngoài đưa đến, đang đè nặng tâm thức của họ. Chúng ta cần phải quay trở về với thực tại để có sự cảm thông, bao dung và độ lượng, đừng vì tình cảm sâu nặng mà tự đánh mất chính mình.

Chúng ta phải nhìn vào mặt tích cực của họ khi gặp phải người khó chịu, đó cũng là một cơ hội tốt để cho mình thể hiện được sự tu tập từ bấy lâu nay bằng tuệ giác của Như lai. Vì khi nghĩ người tốt, ta sẽ bớt tâm ganh ghét, tật đố mà không chỉ trích quá đáng sai lầm của người khác. 

Ngày xưa có một câu chuyện như sau: Một vị tổ sư dùng phương tiện thiện xão để chỉ dạy cho người đệ tử của mình. Vị tổ sư ấy dẫn người học trò đến bên hồ chứa nước trong chùa. Sau đó, lấy một ly nhỏ chứa đầy muối rồi chế nước vào khuấy đều bảo người đệ tử uống.

Người học trò vừa nhấp thử ngụm nước đã nhăn mặt nói nước mặn đắng, không thể uống được! Vị thầy bình thản lấy thêm một nắm muối khác cũng bằng với số muối trước, rồi bỏ vào hồ nước khuấy đều, bảo người học trò nếm thử. Lần này, người học trò uống thử ly nước mà không cảm thấy khó chịu của sự mặn đắng nữa.

Bấy giờ, vị thầy mới từ tốn nói tiếp: Sự đau khổ tột cùng giống như người uống đầy ly nước muối mặn. Tuy nhiên, nếu ta biết khôn ngoan sáng suốt hành trì theo lời Phật dạy, giữ giới, thiền định, từ bi thì ta sẽ dùng lượng muối đó pha vào thật nhiều nước, vị mặn của muối bị dòng nước hòa tan, nên ta vẫn uống bình thường mà không cảm thấy khó chịu bởi vị mặn đắng của nó.

Chính vì vậy, mỗi khi gặp điều không được hài lòng như ý, chúng ta hãy mở rộng lòng ra bằng tâm từ bi và trí tuệ, để soi sáng lại chính mình thì mọi việc phải quấy, tốt xấu, đúng sai, được mất, hơn thua đều có thể tan hòa vào hư không.

Nói tóm lại, tất cả những người khó chịu dù bất cứ hình thức nào đều do sự chấp ngã thân tâm này là tôi, là ta, thấy thân này thiệt mình, thấy tâm suy tư nghĩ tưởng cũng là mình, nên từ đó ta đấu tranh giành giựt, chiếm đoạt dẫn đến tàn sát giết hại lẫn nhau không thương tiếc.

Có một phương pháp để chuyển hóa người khó chịu, trước nhất là chuyển hóa sự khó chịu của chính mình dựa theo lời Phật dạy. Vì sao chúng ta hay làm người khó chịu? Vì chúng ta không có lòng từ bi rộng lớn, từ là ban vui, bi là cứu khổ.

Muốn vậy ta phải quán tình thương và biết cảm thông, tha thứ. Khi thương yêu kính mến ai, ta sẽ không bao giờ khó chịu với người đó.Tình thương yêu chân thật thường đi đôi với tâm từ bi, tức là ban vui và cứu khổ.

Khi có được một trái tim thương yêu có hiểu biết bằng tình người trong cuộc sống, tâm sẽ dễ dàng trải lòng ra để giúp đỡ người khác và không buồn giận khi người đó vô ơn. Mỗi lần thấy một người khó chịu, ta tự cảm thấy mình cần phải làm điều gì đó, để giúp người ấy có đủ năng lượng thiết lập lại bình yên, hạnh phúc.

Có một người nọ thấy con bọ cạp sắp chết đuối trong một vũng nước. Khi thấy vậy tự nhiên ông ta muốn cứu giúp nó, nên nhanh nhẹn đưa bàn tay ra vớt con bọ cạp khỏi vũng nước, đặt nó vào chỗ an toàn. Con bọ cạp liền chích ông ta một phát đau điếng.

Tuy nhiên vì muốn qua đường, nó lại đi tiếp và cuối cùng lọt vào vũng nước khác. Lần này thấy nó sắp chết đuối, ông ta lại vớt nó lên lần thứ hai và cũng bị nó chích cho một phát nữa. Tay ông lúc này sưng vù, đau điếng.

Một người khác chứng kiến cảnh tượng đó từ đầu đến cuối bèn nói: “Tại sao ông lại dại khờ đến thế? Nên mới bị con bọ cạp chích cho hai lần đau điếng. Ông thật là điên rồ, khi phải cứu vớt một con bọ cạp chẳng biết ơn nghĩa là gì!

Người đàn ông vui vẻ trả lời: “Thưa ông, tôi không thể nhìn thấy cảnh con bọ cạp bị chết đuối. Ông biết đó, thói quen và bản tính của con bọ cạp là chích, khi có người khác đụng vào, đó là phản ứng tự vệ của nó, nó chỉ sống theo tập khí, thói quen mà không có sự quán chiếu. Còn thói quen của tôi là sẵn sàng cứu giúp khi có nhân duyên. Tôi thà chịu đau một chút mà cứu được con bọ cạp.

Suy luận trong trường hợp này, nếu người đàn ông đó dùng trí tuệ lấy một cành cây để vớt con bọ cạp thì sẽ không bị chích. Nhưng ông ta nghĩ rằng cứu một con bọ cạp trong cơn hoạn nạn là điều cần thiết, còn hậu quả như thế nào sẽ tính sau.

Qua bài học của câu chuyện này, đã nói lên tâm từ bi rộng lớn của người đàn ông muốn cứu một sinh mạng khác, dù đó chỉ là một con vật thấp kém. Ở đây cho chúng ta thấy người có tấm lòng rộng mở khi giúp người vật trong cơn nguy khốn, sẽ không có sự tính toán vì ta, người, chúng sinh. Đức tính của ông ta là sự giúp đỡ, sẻ chia bằng tình người trong cuộc sống với trái tim thương yêu và hiểu biết.


Do đó, khi có được tình thương yêu rộng lớn thúc đẩy, chúng ta sẵn sàng giúp đỡ người khác, bất kể màu da, tôn giáo, chủng tộc. Nếu chúng ta, ai cũng biết nuôi dưỡng tình thương yêu chân thật bằng sự quán chiếu hằng ngày, ta sẽ thấy người và vật không có ai là kẻ thù, chỉ có người chưa thông cảm với nhau mà thôi. Nhờ vậy, khi sống chung với người khó chịu ta vẫn bình yên, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

LỜI PHẬT DẠY TU TRONG MỌI HOÀN CẢNH

Tu trong lúc làm việc bận rộn

Trong cuộc sống của chúng ta dù bất cứ hoàn cảnh nào, ta cũng phải biết cách tu nhân tích đức để ngày càng hoàn thiện chính mình. Nhiều người nghĩ rằng, tu là dành riêng cho người xuất gia hoặc những kẻ rảnh rang nhàn hạ, người thừa tiền nhiều của, còn mình làm lụng vất vả nhọc nhằn, cơm không đủ ăn áo không đủ mặc, cuộc sống thiếu thốn khó khăn lấy thì giờ đâu mà tu? Hoặc có nhiều người nghĩ, tu là việc của những kẻ bất hạnh bần cùng, già cả, cô nhi quả phụ, bệnh tật bẩm sinh…. còn ta nhiều tiền lắm của, con đông cháu đầy, quyền cao chức trọng tu để làm gì?

Bởi có những quan niệm như vậy, nên một số người nghĩ rằng tu làm chi cho khổ, sống vui chơi hưởng thụ không sướng sao? Họ đâu biết rằng, nếu chúng ta biết tu thì thế gian này giảm bớt tệ nạn xã hội, con người sẽ đoàn kết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, bằng tình người trong cuộc sống với tấm lòng vô ngã, vị tha.

Thế giới loài người có rất nhiều tôn giáo học thuyết chính trị triết lý khác nhau, nếu chúng ta không biết lựa chọn con đường tốt đẹp, thì ta sẽ rơi vào chỗ tối tăm, mờ mịt. Một số người nói rằng tôn giáo nào cũng tốt, nói  như vậy là không đúng, tôn giáo nào hướng dẫn cho ta biết cách làm chủ bản thân, tin sâu nhân quả, không sát sinh hại vật và thương yêu bình đẳng mọi người mới thật sự là tốt đẹp.

Con người lúc nào cũng khởi lên tâm niệm tốt xấu lẫn lộn, nếu chúng ta mặc tình thả trôi theo những tâm niệm xấu ác, thì ta sẽ gây ra đau khổ cho nhiều người. Để hạn chế tâm niệm xấu ác, chúng ta phải mở rộng tấm lòng từ bi rộng lớn nhằm chuyển hóa nỗi khổ niềm đau thành an vui, hạnh phúc.

Nếu chúng ta khéo tu niệm xấu dần hồi sẽ giảm bớt, niệm tốt sẽ tăng trưởng theo thời gian, nhờ vậy ta ngày càng hoàn thiện chính mình và luôn làm tròn bổn phận đối với gia đình người thân, và đóng góp lợi ích thiết thực cho xã hội.

Có nhiều người bận lo kế sinh nhai cho gia đình, họ tất bật từ sáng sớm đến chiều tối, về đến nhà trời đã tối, vậy còn thì giờ đâu mà tu? Nếu chúng ta khuyên họ phải tụng kinh, sám hối, ngổi thiền thì chắc chắn họ không thể làm được.

Nếu nói như vậy thì những người bộn bề công việc sẽ không tu được sao? Nhưng ta phải hiểu rằng, tu ở đây là buông xả ý nghĩ xấu ác làm tổn thương người vật, nuôi dưỡng ý nghĩ tốt đẹp để cùng thương yêu san sẻ giúp đỡ nhau.

Tu là bỏ lời nói hung dữ ác độc thành lời nói hiền hòa ái kính, dừng ngay những hành động xấu ác làm tổn thương người khác, tạo những hành động thiện ích để cùng san sẻ với mọi người, như vậy trong bộn bề công việc, chúng ta vẫn có thể tu được.

Trong lúc làm việc cũng thế, ta làm việc nào chỉ biết việc đó, ta chỉ chú tâm vào công việc mình đang làm. Từ anh giám đốc cho đến cán bộ  công nhân viên, tất cả đều phải chú tâm vào công việc của mình. Giám đốc sau khi phân công, điều hành xong thì làm nhiệm vụ theo dõi giám sát, nhờ vậy kịp thời giải quyết những khó khăn, bất trắc.

 

Người kế toán chú tâm vào việc đánh máy của mình, cho nên tính toán chính xác không sai con số. Chị lao công quét dọn chỉ chú tâm vào công việc sẽ nhìn thấy rõ chỗ nào dơ sạch nhiều mà lau chùi cho kỹ càng. Anh bảo vệ thường quán sát người ra vào cơ quan, biết rõ từng người một trong quan hệ giao dịch, để kiểm soát và quản lý chặt chẽ mọi vấn đề.

 

Và tất cả mọi phòng ban nghành đoàn thể, cứ như thế mỗi người đều có trách nhiệm riêng, chúng ta chỉ chú tâm vào công việc được giao để hoàn thành tốt nhiệm vụ, nhờ vậy năng suất lao động nâng cao và công việc được hoàn thành đúng thời gian hoặc trước thời hạn.

 

Tu trong công việc là điều kiện cần thiết mà ai cũng phải có ý thức được trách nhiệm của mình, nhờ chú tâm quan sát rõ ràng ta làm việc ít thấy mệt mỏi và không bị thời gian chi phối. Nếu trong làm việc ta không biết tập trung sẽ lãng phí thời gian làm thiệt hại cho cơ quan, vì đi trễ về sớm và trong khi làm việc, trông cho mau hết giờ để về nhà hoặc đi chơi.

 

Tu trong bộn bề công việc sẽ giúp cho ta biết cách hóa giải được nhiều thứ bằng kinh nghiệm của chính mình, từ đó ta dễ dàng kiểm soát tâm bất chính phát sinh, nhờ vậy ta làm tròn trách nhiệm được giao.

 

Nhiều người không biết hay phàn nàn, được ở yên trong chùa mới là tu hoặc ở thâm sơn cùng cốc không có ai mới là tu và được nhập thất ở yên một chỗ mới là tu…..Nếu chúng ta, ai cũng muốn tu như vậy hết thì xã hội này sẽ bị phế bỏ, vì không có ai làm việc, đóng góp thì lấy gì ăn để mà sinh sống. Quan niệm đó chỉ dành riêng cho một số người nào đó đã già bị mất sức lao động, hoặc có dư tiền của để sống hay chán cảnh phồn hoa phố thị, đua chen giành giựt….

 

Tu trong lúc mua bán

Người mua bán ngoài chợ cũng phải biết cách tu, trước tiên là ăn nói nhỏ nhẹ, hài hòa dễ nghe. Khi khách đến không nên nói thách quá, tốt nhất nên nói đúng giá, nếu khách không mua hay trả giá quá thấp cũng nên vui vẻ, cởi mở, đừng nên tỏ thái độ cằn nhằn, bực tức. Nhiều người thậm chí còn mê tín, sáng sớm khách mở hàng mà không mua thì đốt phông lông, la ó, chửi rủa um sùm, bán buôn như vậy dần hồi sẽ mất hết khách hàng.

Cuộc sống này vốn thuận mua vừa bán chớ không có gì bắt buộc, người biết tu trong lúc mua bán sẽ biết cách thu hút khách hàng, giữ mối quan hệ mua bán lâu dài, nên được nhiều người ưa thích.

Trái lại, chính khi buôn bán làm ăn, chúng ta có ý nghĩ tốt, thốt lên lời nói hiền lành, có thái độ vui vẻ chân thành, nhờ vậy khách hàng mến thương, khiến người đến mua hàng ngày càng đông, do đó việc mua bán dễ phát đạt.

Một ví dụ điễn hình, như món hàng đó giá hai ngàn đồng mới bán được mà khách chỉ trả có tám trăm, thì làm sao bán đây? Trong trường hợp này, nếu người bán hàng không biết tu, sẽ nói lời cộc cằn thô lỗ làm mất lòng người khách.

Ngược lại, người bán hàng khéo tu, chỉ cần vui vẻ nói nhẹ nhàng. Dạ xin chị thông cảm dùm em, chị trả giá chưa đủ vốn bán không được. Chị tới chỗ khác hỏi, nếu bằng giá em bán, xin chị quay lại mua dùm em, em rất cám ơn chị. Chúng ta nói như vậy thì mọi việc sẽ êm ái, nghe xuôi tai mà không ai thiệt thòi gì, và còn giữ được mối quan hệ lâu dài trong mua bán.

Trước những điều không được hài lòng như ý, chúng ta biết kềm chế sự nóng giận, nói năng nhỏ nhẹ lựa lời ôn hòa để giải thích đối với khách hàng, đó là ta khéo tu giữa chốn đông người. Ở giữa chợ đời không khi nào ta có thể làm vừa lòng hết thiên hạ, mỗi ngày xãy ra đủ thứ chuyện tào lao thiên địa, nếu ta không biết tu trong lúc mua bán, thì mọi việc sẽ đổ vỡ hết. Chính vì thế, người xưa nói: Nhất tu chợ, nhì tu chùa, ba tu núi là vậy.

Tóm lại, mua bán ngoài chợ phải giữ giới không nói dối, không nói lời hằn học khó nghe huống hồ là nói lời mắng chửi rồi còn phải nói lời ái ngữ nhẹ nhàng, đó là ta biết tu trong chốn đông người.

Tu trong lúc làm ruộng rẫy

 

Người làm ruộng, trồng hoa màu để cung cấp thức ăn, thực phẩm cho con người cũng phải biết tu. Do phải trải qua nhiều công đoạn từ khâu gieo giống, chăm sóc, cày cuốc, tưới tẩm và bón phân theo đúng quy trình, nếu chậm thời gian sẽ không có kết quả tốt nên phải chú tâm vào công việc; do đó ta dễ dàng quán sát chặt chẽ, nhờ vậy ta tính toán làm việc theo đúng quy trình, thời gian cho phép.

Nếu là người nông dân làm nghề ruộng rẫy khi vác cuốc ra đồng, chúng ta phải luôn suy nghĩ rằng “siêng năng cần mẫn làm đúng kỹ thuật để cho lúa được trúng mùa, để có cơm cho gia đình mình ăn, nếu có dư chúng ta chia sẻ cho mọi người khác”. Người nông dân trong lúc cuốc đất, nhổ cỏ, gieo mạ, bón phân khởi lên ý nghĩ lành, tập trung làm việc nào biết việc đó, như vậy là đang tu.

Thấy thửa ruộng bên cạnh tốt hơn ruộng mình, chúng ta không có tâm đố kỵ, mà vui vẻ chúc mừng người bạn xóm giềng được trúng mùa lúa bội thu thì gia đình họ sẽ được cơm no áo ấm…, nhờ vậy ta không ganh ghét, tật đố nên không bực tức buồn phiền, đó là ta khéo biết tu.

Khi ta biết cách tu trong ruộng rẫy, ta sẽ ý thức không nên dùng nhiều hoá chất mà chỉ dùng theo liều lượng cho phép, nhờ vậy hoa mầu đến tay người tiêu dùng, không bị ảnh hưởng các chất độc hại. Nhiều người vì lòng tham lam quá đáng, muốn lợi nhuận cao nên bị đồng tiền làm mờ mắt, chiều nay xịt thuốc dưỡng, sáng mai đem đi bán liền nên người ăn dễ bị ngộ độc. Người thời nay bệnh hoạn nhiều cũng do con người không biết tin sâu nhân quả, chỉ biết lợi trước mắt cho chính mình mà làm tổn hại rất nhiều người khác.

Trong lúc ta đang làm việc nhổ cỏ bón phân, tưới tẩm cho hoa mầu tốt, khi ấy tâm vừa khởi niệm xấu làm ta xao lãng việc làm, ta liền quay trở lại chính mình bằng cách khởi lên niệm thiện, nhờ vậy đem lại kết quả tốt đẹp, đó là ta đang tu.

Tu trong lúc đi học

Trước tiên là nói việc tu của các em học sinh đang bận việc học hành thi cử, nếu biết cách tu vẫn đạt được kết quả tốt đẹp. Khi cắp sách đến trường, các em phải quan niệm rằng, “ta cố gắng học cho giỏi, để sau này trả ơn cha mẹ, có sự nghiệp và tương lai để làm tròn trách nhiệm bổn phận đối với gia đình người thân, đóng góp lợi ích cho xã hội và hoàn thiện chính mình”, đó là các em học sinh khéo tu.

Muốn lập thân cho đúng nghĩa của nó, các bạn trẻ phải chú tâm vào việc học để tiếp thu nền kiến thức phong phú và đa dạng, bằng sự hiểu biết chân chính. Học không có nghĩa là chỉ cần cắp sách đến trường và đọc nhiều sách vở, hay học được một nghề thật giỏi và kiếm thật nhiều tiền để hưởng thụ.

 

Mục đích của việc học là để thành người với đúng ý nghĩa của nó, tức là một con người hoàn thiện về mọi mặt, tài giỏi và có nhân cách đạo đức nhằm làm tròn trách nhiệm đối với gia đình người thân và dấn thân đóng góp lợi ích cho xã hội.

 

Trước tiên, học là noi gương sáng của các bậc tiền nhân, vĩ nhân, tức là chúng ta bắt chước những việc làm ích nước lợi dân mà các bậc tiền bối xưa đã làm. Chúng ta học để phân biệt được phải trái, tốt xấu, đúng sai, hơn thua, thật giả.

 

Thấy điều tốt đẹp ta phải bắt chước làm theo. Thấy điều xấu ác làm tổn hại đến mình và người, thì ta phải tìm cách tránh xa hoặc không a dua theo. Người khôn ngoan sáng suốt là người biết học để tiếp thu cái tốt, biết loại bỏ cái xấu của người khác, đó là ta biết tu.

 

Từ những hiểu biết căn bản qua việc học trên ghế nhà trường, gia đình là môi trường trực tiếp để dạy các em biết được đạo lý làm người. Chúng ta không thể nào học suông lý thuyết mà cần phải tìm tòi, nghiên cứu, suy diễn, nghiệm xét và biết phân biệt tốt xấu, đúng sai. Chúng ta đừng quá tin vào sách vỡ mà hãy học cách suy gẫm, để tìm ra bản chất thật của nó để áp vào trong cuộc sống hằng ngày.

 

Ngoài ra, chúng ta phải cố gắng và có quyết tâm cao độ trong học hỏi thì mới mong đạt được kết quả tốt đẹp trong tương lai. Có cố gắng học hỏi như thế ngay khi còn nhỏ thì các bậc cha mẹ mới đem hết khả năng và những gì biết được để chăm sóc, dạy dỗ cho con em mình hầu giúp chúng, có ý thức trong việc học mà không phụ lòng cha mẹ.

 

Các em học sinh hãy nên nhớ rằng, nếu chúng ta không có ý chí tự lập thì sau này khó có cơ hội thành công. Những người như vậy dù cha mẹ có cố gắng quan tâm, lo lắng và giúp đỡ, cũng không thể nào giúp họ tiến thân. Cuối cùng, những người này chỉ ăn bám gia đình người thân bởi tâm ỷ lại, và không giúp ích gì cho xã hội.

  

Chúng ta học để biết cách làm chủ bản thân nhờ có suy nghĩ tích cực, tư duy quán chiếu nhận ra chân lý cuộc đời và học để biết cách chung sống với mọi người mà không làm tổn hại cho nhau. Đa số chúng ta hiện nay chỉ quan niệm học để kiếm tiền, để có công ăn việc làm ổn định, đó là cách học để làm ăn.

 

Có một quan điểm khác rất quan trọng là học để nâng cao trình độ hiểu biết và biết cách hoàn thiện chính mình, thì hầu như hiện nay ít người quan tâm đến.

 

Chúng ta học nhằm để phát triển được hết năng lực của mỗi cá nhân, nhờ vậy ta biết cách làm chủ bản thân, biết được giá trị sống của đời mình mới chính là mục đích của việc học. Khi chúng ta đã biết cách phát huy tốt năng lực bản thân, thấy được giá trị thiết thực của cuộc sống là phải nương nhờ vào nhau mới phát triển tốt đẹp, do đó chúng ta cần phải có trách nhiệm yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau bằng tình người trong cuộc sống.

 

Chúng ta học làm sao để làm người con hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ. Hiếu thảo là đạo lý “uống nước nhớ nguồn, ăn trái nhớ kẻ trồng cây”, là đạo lý chân thật không thể thiếu trong đời sống hằng ngày.

 

Cha mẹ là người sinh ra mình, săn sóc, nuôi dưỡng mình rất vất vả, nhọc nhằn và còn lo cho ta từ cái ăn tới việc học, đến khi khôn lớn lại dựng vợ gã chồng và còn chia gia tài cho ta nữa. Cha mẹ cũng chính là người thầy giáo đầu tiên dạy ta nên người. Công ơn cha mẹ được ví như trời cao biển rộng, không gì có thể sánh bằng. Chính vì vậy mà con cái phải biết thương yêu, kính trọng và biết ơn cha mẹ.

 

Lúc nhỏ, chúng ta chỉ cần thể hiện lòng biết ơn cha mẹ bằng cách nghe lời cha mẹ chỉ dạy, siêng năng chăm chỉ học hành và yêu kính cha mẹ. Khi khôn lớn trưởng thành chúng ta thể hiện lòng biết ơn cha mẹ bằng cách sống làm tròn trách nhiệm, bổn phận đối với gia đình người thân, hết lòng phụng dưỡng cha mẹ, ân cần săn sóc cha mẹ, kính trọng cha mẹ và giúp đỡ cha mẹ mỗi khi cha mẹ cần đến.

 

Chúng ta làm được như thế thì mới gọi là người con có hiếu và mới được gọi là người có học thức. Nếu chúng ta làm trái các điều này thì ta có thể bị liệt vào hạng người con bất hiếu.

 

Trong các tội đồ, tội lớn nhất là tội bất hiếu vì cha mẹ là người có ơn nghĩa cao cả mà ta còn không biết ơn và đền ơn thì huống hồ ta có thể giúp đỡ, sẻ chia cùng người khác. Con người một khi đã dính vào tội bất hiếu, thì không việc xấu ác nào mà họ không dám làm.

 

Qua chương trình tài trợ học bổng cho các em học sinh khó khăn vùng sâu, vùng xa của Hội Ấn Tống Từ Thiện Duyên Lành, do chúng tôi làm chủ nhiệm, chuyên tài trợ học bổng cho các em học sinh khó khăn, với chủ đề “Kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống”, chúng tôi muốn gửi gắm đến các em một thông điệp:

 

Học để các em nâng cao trình độ hiểu biết, tin sâu nhân quả và biết cách hoàn thiện chính mình, để làm tròn bổn phận đối với gia đình, người thân và đóng góp lợi ích thiết thực cho xã hội.

 

Chúng ta cần phải chú tâm vào việc học ngay từ khi còn trẻ và tiếp tục học hỏi, trau giồi mãi cho đến khi già chết mới thôi. Việc học phải bao gồm từ khi nghe đọc, rồi nghiên cứu, suy gẫm, biết cách áp dụng thực hành từ ý nghĩ cho đến lời nói, hành động cũng phải học. Đó là các em học đúng cách theo lời Phật dạy là văn, tư, tu. Như thế, trong lúc đang học các em học sinh vẫn tu được.

 

Tu trong lúc nghiên cứu giảng dạy

 

Tu trong lúc nghiên cứu, giảng dạy là ta chú tâm soạn bài giảng, tập trung vào nội dung cần triển khai về đề tài mình muốn nói. Khi soạn xong ta nên đọc lại từ 3 đến 5 lần để nắm rõ nội dung khái quát đề tài giảng dạy. Trước khi lên Pháp toà trong vòng một tiếng đồng hồ ta không cần nhớ nghĩ gì nữa mà chỉ cần nhiếp tâm theo dõi hơi thở, thở vô ta biết mình thở vô, thở ra ta biết mình thở ra, chỉ cần nhìn lại hơi thở mà không cần đối trị, nhờ vậy tâm được định tĩnh, sáng suốt, khi lên giảng những gì cần nhớ sẽ nhớ liền nên giúp người nghe nắm bắt nghĩa lý rõ ràng.

 

Về phía người nghe cũng vậy, chỉ cần chú tâm khi nghe mà không khởi niệm phân biệt hay-dở, ta nghe chỉ để học hỏi, để biết cách tu tập và ứng dụng vào trong cuộc sống hằng ngày.

 

Người giảng dạy Phật pháp, trước tiên cần phải biết căn cơ của mọi người họ đang mong muốn nghe những điều gì, nếu ta hướng dẫn pháp thoại mà họ không thể thực hành được, thì e rằng không đúng ý Phật.

 

Phật ngày xưa muốn hướng dẫn cho ai điều gì, trước tiên Ngài quán sát nhân duyên coi ngày hôm nay có thể độ người nào được, nhờ nắm bắt nhu cầu họ mong muốn, nên sau khi giảng xong rất nhiều người sáng đạo, tĩnh ngộ ra. Chúng ta ngày hôm nay, khi giảng pháp không phân biệt được trình độ căn cơ của họ, chỉ một bề nói theo sự hiểu biết của mình mà thôi, nên người nghe không hiểu, không biết gì làm sao thực hành được?

 

Đó là vấn đề nan giải, nói pháp cho người xuất gia và cư sĩ tại gia thì phải có sự khác biệt rõ ràng, chúng ta không thể nào đánh đồng chung được. Trong một pháp hội, người xuất gia khoảng 100 người, người tại gia khoảng 1000 người, như vậy thì ta sẽ nói pháp nào cho phù hợp.

 

Tốt nhất là nên phân chia rõ ràng, pháp hội này dành riêng cho người xuất gia, pháp hội kia dành cho người tại gia, nói pháp cho người xuất gia khác, người tại gia khác, như thế khi diễn giảng sẽ giúp cho người nghe dễ dàng lãnh hội. Đó là ta biết tu trong vấn đề nghiên cứu giảng dạy.

 

Tu trong lúc lái xe  

 

Khi lái xe ta dùng tâm biết của mình để điều hành. Mắt nhìn về phía trước để quan sát sự vật, liếc bên phải, bên trái để thấy các phương tiện khác. Tay lái xe, chân đạp thắng, đạp ga, giảm ga. Lổ tai lắng nghe tiếng kèn của các loại xe khác để biết mà nhường đường. Trước khi lái xe chúng ta phải tâm niệm mình đang chở biết bao sinh mạng trên xe, do đó ta phải bảo đảm những nguyên tắc sau đây.

 

Trước khi lái xe không được uống rượu bia, một người tài xế không được chạy quá 8 tiếng đồng hồ liên tục, mà phải đổi ca mới đảm bảo an toàn cho hành khách. Thường thì tai nạn xảy ra do tài xế quá mệt mỏi nên ngủ gật, uống rượu bia hoặc tâm bị dao động, nhớ nghĩ lung tung nên không làm chủ trong lúc lái xe.

 

Tu trong lúc lái xe đòi hỏi người tài xế phải nhạy bén, tinh thông để ứng biến việc xãy ra tai nạn bất ngờ. Do đó ta phải dùng tâm biết quán sát và  kết hợp nhuần nhuyễn với mọi thao tác, chỉ cần lơ là hay vọng tưởng một chút là xãy ra tai nạn liền.

 

Dân gian có câu: Làm nghề tài xế một chân ở trong tù, một chân ở ngoài đời. Do đó, tu trong lúc lái xe đòi hỏi người tài xế phải biết quán sát toàn diện, mắt nhìn về phía trước ở tầm xa, giảm ga đạp thắng hay tăng tốc độ, đều phải đảm bảo luật an toàn giao thông cho phép. Đó là ta khéo biết tu trong lúc lái xe.

Tu trong cảnh nghèo khó

Chúng ta có thể nghèo tiền nghèo bạc thiếu thốn khó khăn đủ thứ, chớ đâu có nghèo nàn về ý nghĩ, lời nói, cho đến hành động. Chúng ta có thể chuyển hóa những ý nghĩ xấu ác hại mình và người khác thành ý nghĩ thiện lành tốt đẹp.

Khi xưa, ta chưa biết tu nên nói lời hằn học khó nghe hay mắng chửi người khác, giờ biết tu rồi lời nói nhỏ nhẹ chân thành, hoặc thay đổi hành động hại người, thành giúp đỡ sẻ chia, là ta biết tu trong ý nghĩ, lời nói, hành động. Việc này đâu đòi hỏi chúng ta phải có nhiều tiền của hay nhàn rỗi mới tu được.

Chính ngay nơi cuộc sống vất vả nghèo nàn, thiếu thốn khó khăn ta tự suy nghĩ lại, tại sao mình nghèo mà người khác lại giàu có! Nghèo là do không biêt bố thí cúng dường hoặc giúp đỡ sẻ chia, khi thấy người bất hạnh khổ đau.       

Cuộc sống của chúng ta, không ai có thể tự mình tồn tại một cách độc lập, mà không phụ thuộc vào người khác. Con cái phụ thuộc cha mẹ, vợ chồng phụ thuộc lẫn nhau, gia đình phụ thuộc xã hội. Tất cả đều có sự liên quan mật thiết qua các mối quan hệ, đối nhân xử thế trong giao dịch làm ăn với nhau.

 

Người được giàu có, ngoài việc nhờ vào sự nỗ lực của bản thân, mà còn có sự giúp đỡ trực tiếp hay gián tiếp của nhiều người khác. Kẻ thất nghiệp nghèo khó hoặc chỉ làm các công việc nặng nhọc, vất vả mà thu nhập vẫn không đủ sống, là do không biết gieo nhân thiện lành trong quá khứ hoặc hiện đời siêng năng làm việc và hay sống phóng túng.

 

Sự tham muốn của con người là không có giới hạn, như giếng sâu không đáy, khi có quyền cao chức trọng chúng ta sẽ tìm cách vơ vét về cho riêng mình, gia đình mình, đất nước mình, nên từ đó chiến tranh có mặt khắp mọi nơi vì nhân tranh giành, chiếm đoạt. Đối với mạng sống của chúng ta cái gì là quý nhất? Sự hiểu biết đúng đắn, biết tin sâu nhân quả và tin chính mình là chủ nhân ông của bao điều họa phúc.

 

Chúng ta sống đơn giản, và muốn ít biết đủ chính là bí quyết dẫn đến an vui, hạnh phúc. Chúng ta hãy bớt đi một chút những khao khát ham muốn quá đáng, để có được thời gian quay lại chính mình, biết cách làm chủ bản thân.

 

Nhiều người quan niệm rằng nghèo là do trời sắp đặt, nói như vậy nghe có vẽ bất công quá, nếu ông trời quyết định được số phận của con người, thì tại sao không ban cho hết mọi người đều được cơm no, áo ấm và sống đời bình yên, hạnh phúc?

Trong xã hội, nếu ai cũng tin sâu nhân quả, biết quan tâm giúp đỡ người khác bằng trái tim yêu thương và hiểu biết, thì chắc chắn sự nghèo khó sẽ dần hồi được chuyển hóa, thay đổi theo thời gian.

Như có những người nghèo khó mà lúc nào cũng khởi lên ý nghĩ tốt, lời nói nhỏ nhẹ hiền hòa, hành động lương thiện luôn giúp đỡ người khác khi có việc cần thiết. Nhờ vậy họ luôn được mọi người thương mến thích gần gũi và giúp đỡ.

Ngược lại, nếu ở trong cảnh khó khăn mà chúng ta luôn suy nghĩ xấu, ý hay oán trách người khác, lời nói hằn học khó nghe, hành động ngang tàn bạo ngược, khiến mọi người xa lánh. Người nghèo tuy ít tiền bạc, đời sống khó khăn nhưng vẫn có tấm lòng rộng mở, lời nói hiền hòa, hành động cao thượng, dù sống trong cảnh nghèo mà vẫn thấy an vui, hạnh phúc vì biết bằng lòng với hiện tại.

Vợ chồng biết thương yêu kính trọng lẫn nhau, con cái luôn hiếu thuận với ông bà cha mẹ, anh chị em biết san sẻ giúp đỡ nhau, cha mẹ nuôi dạy con cái đúng theo tinh thần nhân quả, làm lành được hưởng phước, làm ác chịu khổ đau. Đó là người nghèo khéo biết tu.

Tu trong lúc bệnh hoạn đau yếu

Nhiều người nghĩ rằng khi bệnh hoạn rất khó tu, mạnh khỏe mới tu được, đây cũng là sự hiểu biết của một số người chưa thật biết rõ cách thức tu hành. Nếu chúng ta cho rằng khi tụng kinh, sám hối hay ngồi thiền mới là tu, như vậy là chúng ta hiểu sai về việc tu hành, bởi vì việc tu phát xuất từ ý nghĩ, lời nói, hành động, ngay khi bệnh ta càng tinh tấn tu nhiều hơn nữa.

Bệnh có hai dạng là thân bệnh và tâm bệnh, nhưng phần nhiều thân bệnh là do tâm điều hành, sai sử. Thân chúng ta tại sao lại bệnh? Vì tâm  quá tham lam nên ta ăn uống vô độ, món nào thích thì ta ăn thật nhiều, chúng ta vô tình đưa nhiều các thức ăn uống nhiễm độc vào cơ thể. Do tâm tham muốn quá nhiều nên trở thành tâm bệnh, vì tham nên chúng ta muốn thân sung sướng, không ngờ cái sung sướng trong khoái khẩu lại là nguyên nhân gây ra nhiều bệnh tật, trở lại làm khổ ta.

Việc tu chính yếu là chuyển hóa phiền não tham sân si, mà tham sân si từ đâu ra? Từ ý nghĩ của ta, khi ý nghĩ xấu ta liền chế ngự bằng nhiều cách niệm Phật, Bồ tát, niệm hơi thở hay thấy nó là vọng dối ta không theo, không phải chờ khi tụng kinh ngồi thiền lúc đó mới tu. Tu như vậy một ngày được bao nhiêu tiếng đồng hồ, còn những giờ khác chẳng lẽ ta không tu sao?

Nếu người bị bệnh bại liệt phải nằm một chỗ không đi đứng được, khi ấy nên nhiếp tâm vào câu niệm Phật hoặc niệm Bồ tát, lúc này mọi tâm tư lo lắng bất an phải gạt sang một bên, chỉ một bề niệm Phật, Bồ tát. Đây là cơ hội tốt để người bệnh chuyên tâm vào việc tu hành, lúc này chúng ta coi như mình đã chết, thì việc tu đâu có chướng ngại gì.

Thế giới chúng ta ngày hôm nay có quá nhiều bệnh tật vì ô nhiễm môi trường, ô nhễm thức ăn thực phẩm và do con người ăn uống vô độ. Có ai bệnh mà lại không buồn phiền? Điều đầu tiên chúng ta lo lắng là phải hao tiền tốn của lo thuốc thang tìm cách chữa trị.

Ta không biết trân quý sức khỏe sẽ làm tổn thương thân này. Có người suốt cả cuộc đời lúc nào cũng bệnh, khi bị như vậy ta phải biết mình đã gieo tạo nghiệp sát sinh hại vật quá nhiều.

Chúng ta hãy nên thường xuyên thực tập sám hối để dừng nghiệp cũ, không cho chúng tái phạm nữa; mặt khác lại hay giúp người cứu vật, nhờ vậy chúng ta sẽ giảm bớt được bệnh tật triền miên.

Khi bệnh ta hãy tìm phương cách chữa trị như đi khám bác sĩ, đi bệnh viện theo dõi, uống thuốc và biết kiêng cử không được bác sĩ cho phép, đồng thời phải siêng năng sám hối để nghiệp chướng được tiêu trừ, biết làm thiện để chuyển hoá nghiệp xấu ác, thì từ từ sẽ giảm bớt hoặc hết bệnh. 

Rất nhiều bệnh tật phát xuất từ tình trạng máu huyết lưu thông không đều đặn do ít hoạt động chân tay. Do đó, một trong những cách phòng bệnh hữu hiệu nhất là hay siêng năng hoạt động chân tay, tập thể dục, đi bộ, bơi lội, làm vườn, lau dọn nhà cửa và lạy Phật-Bồ tát mỗi ngày.

Như trường hợp của ông trưởng giả Cấp Cô Độc khi bị bệnh nặng gần chết, Phật bảo Ngài Xá Lợi Phật và A Nan đến thăm bệnh. Trong lúc thăm hỏi về bệnh tình, Cấp Cô Độc nói thân thể con đau nhức quá hai thầy ơi, có pháp gì dạy cho con để vượt qua cơn đau đớn này hay không?

Tôn giả Xá Lợi Phất nói, cư sĩ hãy quán xét lại sáu giác quan của mình như sau: Con mắt này không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào con mắt này. Khi thấy chỉ là thấy, thấy tất cả mọi hình ảnh sự vật xanh, vàng, đỏ, trắng đều biết rõ ràng mà không dính mắc vào chúng. Tai mũi lưỡi thân ý cũng lại như thế!

Thực tập đến đây, trưởng giả Cấp Cô Độc liền cảm động mà hai hàng lệ rơi trong lòng hân hoan phấn khởi. Đại đức A-nan hỏi ông rằng: Cư sĩ, vì sao mà ông khóc? Ông có tiếc nuối gì không? Hay là pháp này quá cao ông không thể tiếp nhân được. Trưởng giả Cấp Cô Độc trả lời: Thưa Ngài A-Nan, con không buồn khổ hay tiếc nuối gì hết, con cảm nhận được pháp mầu tối thượng.

Con khóc là vì con đã có nhiều cơ duyên phụng sự Phật pháp mà tới giờ này mới được nghe giáo pháp vi diệu, nhờ vậy mà thân tâm con cảm thấy an ổn nhẹ nhàng. Khi hai thầy Xá-lợi-phất và A-nan từ giã ra về thì cư sĩ Cấp Cô Độc an nhiên tự tại xả bỏ báo thân mà được sinh lên cõi trời thứ ba mươi ba.

Đoạn nhân duyên trên trong kinh giáo hóa người bệnh chúng tôi dẫn chứng ra đây để quý vị cùng học hỏi để ứng dụng vào trong cuộc sống hằng ngày. Nếu có người bệnh, không tu pháp môn niệm Phật Bồ tát mà thích quán chiếu, nghiệm xét liền quán thấy thân này là gốc khổ đau, là  vô thường bại hoại vì già bệnh chết nên ta không bám chấp dính mắc vào thân này, nhờ vậy ta dễ dàng buông xả chấp thân tâm là thật ngã.

Tu trong lúc uống ăn

 

Ngày hôm nay trên đà phát triển ngày càng cao của nhân loại giúp cho con người hưởng thụ tiện nghi vật chất, nhưng ngược lại làm ô nhiễm môi trường, thức ăn uống bị nhiễm độc nặng nề. Các bệnh viện quá tải vì người bệnh quá nhiều, nguyên nhân chính là không biết điều hoà trong ăn uống.

Người tại gia với bộn bề công việc nên không biết làm cách nào để điều hoà thân tâm cho tốt, do đó dễ phiền muộn khổ đau, bệnh hoạn và bất an lo lắng, sợ hãi.

Tất cả chúng ta vì bị vô minh che lấp nên khi có mặt trên thế gian đều không có nhận thức sáng suốt, do đó ta chỉ lo thụ hưởng sự ăn uống mà nhẫn tâm giết hại các loài vật. Có những việc cần thiết mà chúng ta không lo, chỉ cố tâm lo phần không quan trọng mà lãng quên phần lợi ích lâu dài.

Trong cuộc sống của chúng ta thường chỉ lo ăn với uống cho đó là vấn đề chính yếu. Tối ngày chúng ta làm việc vất vả, nhọc nhằn chỉ để ăn với uống sao cho ngon miệng, nên ta phải giết hại các sinh vật rồi tham đắm, dính mắc vào đó mà chịu quả báo xấu khi đủ duyên. Ăn thì phải món ngon vật lạ hoặc cao lương mỹ vị. Khi có quyền cao chức trọng thì ăn trên ngồi trước, bắt người khác phải cung phụng cho mình đầy đủ những nhu cầu cần thiết.

Trong cơ thể chúng ta hai bộ phận chủ yếu là thận và gan, thận điều tiết thải độc bằng nước và mồ hôi. Nếu để thận yếu thận suy dễ phát sinh bệnh tim mạch và huyết áp cao, tai biến mạch máu não và đột quỵ. Ăn quá nhiều dầu mỡ đồ nóng từ chiên xào nướng, dùng thức uống kích thích như rượu bia nhiều dẫn đến bệnh nóng gan, sơ gan, viêm gan siêu vi B, C và bệnh ung thư là điều không thể tránh khỏi.

 

Khi bệnh tật đã phát sinh, nếu không chết liền cũng làm hao tiền tốn của, làm khổ gia đình người thân và sau khi chết dễ dàng bị đoạ lạc vào chỗ xấu ác.

Ăn uống trong thời buổi này phải cao thượng và có ý thức, chúng ta chấp nhận muốn ít biết đủ như vậy sẽ ít bệnh. Trước khi ăn những món hiền lành và bổ dưỡng ta nên nói thầm trong miệng, "chỉ xin ăn những thức ăn có tác dụng ngăn ngừa tật bệnh và nuôi dưỡng thân tâm sáng suốt". Đó là ta luôn sống trong tỉnh giác khi ăn và khi nấu ăn.

Người cư sĩ tại gia nên ăn nhiều rau và trái cây, ăn ít thịt nhiều cá nhưng phải biết chọn lựa loại nào ít nhiễm độc, vì một số lớn các bệnh tật phát xuất từ việc ăn uống không điều độ hay không biết chọn lựa thức ăn tinh khiết. Chúng ta hạn chế bớt các chất béo sẽ tránh được bệnh tim, huyết áp cao và ung thư gan.

Để quân bình trong cuộc sống ăn uống hằng ngày, cơ thể chúng ta cần có đủ chất bổ đến từ thịt, cá và chất xơ trong các thứ rau, đậu và trái cây. Chất xơ giúp tiêu hóa dễ dàng và loại bỏ các thứ mỡ không cần thiết cho cơ thể.

Nói chung, thức ăn kho và luộc tốt hơn là chiên, xào, nướng. Ngoài ra, chúng ta nên để ý cách dùng các gia vị âm dương trong nghệ thuật nấu nướng và ăn uống của người Việt Nam. Theo đó, các loại thịt cá thuộc loại âm thường được nấu với các thứ gia vị và rau thuộc loại dương và ngược lại.

Đối với thức ăn vật chất, Đức Phật dạy mọi người không nên ăn nhiều, chỉ ăn vừa đủ giúp cơ thể khỏe mạnh, không nên ăn những gì không thích hợp với cơ thể. Cách thức ăn uống của người Việt tương đối lành mạnh nhưng chế độ ăn uống thường mang tính cách theo thói quen, ngon miệng, hợp khẩu vị mà có thể thiếu các chất bổ dưỡng cần thiết hoặc dư chất bổ dưỡng.

Chúng ta vì sự sống phải sát sinh để ăn thịt các loài động vật, dẫn đến làm tổn hại gây ra ác nghiệp thù hằn vay trả, tất phải thọ báo xấu khi đủ nhân duyên. Nếu sau khi đã lỡ sát sinh thì chúng ta phải biết ăn năn sám hối, làm nhiều việc thiện mới có thể chuyển được nghiệp xấu ác mà quả báo có thể nhẹ đi đôi phần.

Chỉ có Phật giáo mới có thể nói rõ được nguyên nhân vì sao xảy ra chiến tranh, tàn sát giết hại lẫn nhau. Chúng ta có thể thấy quả thì biết nhân, giống như thấy dưa thì biết ngay dưa là từ hạt giống dưa mà có. Hiện tại, sở dĩ loài người bị quả báo chiến tranh dẫn đến đau thương, chết chóc làm nhiều người đau khổ là do nhân sát sinh hại vật mà ra.

Sát sinh có ba nguyên nhân chủ yếu, một là trực tiếp giết và hai là xúi bảo người khác giết và thấy người giết vui vẻ đồng tình. Một số người do không tin lý nhân quả, lại còn cho rằng trời sinh ra vạn vật để phục vụ con người nên mặc tình giết hại. Dân gian có câu “oan gia trái chủ”, giả sử có trải qua trăm ngàn kiếp đi nữa thì những nghiệp tốt xấu mỗi người đã tạo ra cũng không mất. Nên biết, giữa nhân và quả còn có sự trợ duyên, khi nhân gặp duyên đầy đủ thì quả sẽ trổ.

Trong đạo Phật, vấn đề ăn uống không phải là chuyện quan trọng hàng đầu. Dù ăn mặn hay ăn chay chúng ta cũng nên ăn uống đơn giản, đạm bạc để dành nhiều thời gian cho việc tu học và làm lợi ích cho tất cả mọi người. Con người muốn sống một cuộc đời an nhàn, tự tại không nên lệ thuộc quá nhiều vào việc ăn uống.

Tóm lại, vấn đề ăn mặn và ăn chay còn khá nhiều khía cạnh tế nhị khác, trong phạm vi hạn hẹp và có giới hạn chúng tôi không dám luận bàn nhiều, chỉ nhắc lại lời cổ nhân dạy: “Ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn". Nghĩa là, con người sinh ra trên trái đất này ngoài chuyện ăn uống để bảo tồn mạng sống, thì chúng ta còn phải làm tròn trách nhiệm đối với gia đình người thân và đóng góp lợi ích thiết thực cho xã hội.

Cho nên, người tu theo đạo Phật dù tại gia hay xuất gia, chúng ta cũng phải ý thức được chỗ này mỗi khi ăn uống. Khi ăn chúng ta chỉ biết mình đang ăn mặn lạt, chua cay, ngọt đắng, ngon dỡ ta đều biết rõ ràng. Lúc ăn ta quan niệm rằng ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn, nhờ vậy ta làm chủ trong khi ăn uống không bị lòng tham sai sử, do đó sống đơn giản đạm bạc.

 

Tu trong lúc tắm rửa mặc quần áo

 

Nhiều người nghe nói tu trong lúc tắm rửa, mặc quần áo nghe hơi kỳ lạ quá. Bởi vì chúng ta phải tu trong mọi hoàn cảnh mới được. Quý vị nghe chúng tôi hướng dẫn sẽ thấy giá trị và lợi ích thiết thực của nó. Khi vào trong nhà tắm và lột bỏ hết lớp quần áo bên ngoài ra, ta mới thấy rõ con người chân thật của mình. Cũng vậy, khi chúng ta buông bỏ hết phiền não tham-sân-si thì Phật tính sáng suốt mới hiện ra, ngay nơi thân này.

 

Người phụ nữ khi tắm mất thời gian rất lâu so với đàn ông, vì họ rất quý trọng thân này, do đó họ chú ý từng làn da sớ thịt của mình, ngắm nghía chà rữa kỹ càng, nhất là những người đã có chồng, có con. Phụ nữ thì sợ xấu, sợ già, sợ hôi, sợ chồng chê, sợ cô đơn và vô vàn nỗi sợ khác, nên khi tắm phải dùng nhiều xà bông, nước thơm, tắm như vậy là đã đánh mất chính mình vì tham đắm, dính mắc vào thân này quá nhiều.

 

Người nữ mập quá sẽ rất khốn khổ vì nghĩ mình không còn sức hấp dẫn đối với chồng hay người yêu hoặc người khác phái, đó là nỗi khổ niềm đau của phái đẹp. Ốm quá thì thân hình lòi xương, trông giống con khô hố, ai chạm đến tưởng như là gốc cây. Nói chung, người nữ mập quá hay ốm quá đều cảm thấy khổ sở vô cùng.

 

Chúng ta tắm nhằm mục đích rửa sạch chất dơ bẩn, sau một buổi hay một ngày làm việc, để tẩy đi các chất ô uế bám dính trong người. Khi tắm nước lạnh ta cảm nhận nước mát khắp toàn thân, khi tắm nước nóng ta cảm nhận sự ấm áp của nó, tắm như vậy là không bị dính mắc vào thân.

Người biết tu trong cuộc sống khi tắm chỉ biết mình đang tắm mà không ngắm nghía, săm soi thân hình, nhờ vậy trong lúc tắm cảm nhận được an ổn, nhẹ nhàng. Tắm như vậy là ta đang biết tu, vì không vướng bận bởi thân hình đẹp xấu hay già nua.

 

Mặc quần áo mục đích chính là để che thân không bị loã lồ, nhưng ta lại nghĩ mặc quần áo để khoe đẹp với người khác, do đó phải tốn tiền mua sắm quá nhiều. Người phụ nữ Việt Nam trong thời hiện đại đang dần đánh mất chiếc áo bà ba hay áo dài, thay vào đó là váy ngắn, áo hở cổ, khoét ngực để khoe sự hấp dẫn, vô tình làm cho các đấng mày râu mê muội, dính mắc vào đó.

 

Thường thì phụ nữ nặng về luyến ái, tức tình cảm nặng nề, do đó làm đẹp là bản chất của phái đẹp; nhưng ta phải biết hài hoà cho có chừng mực vừa phải đỡ tốn thời gian, ít hao tiền bạc, nhờ vậy cũng giảm bớt lòng tham muốn, do sự chấp ngã thấy thân mình là thật.

 

Ăn mặc giản dị, gọn gàng là nét đẹp văn hoá của người phụ nữ Việt Nam. Cái đẹp của người phụ nữ là đẹp ở tấm lòng, đẹp ở nhân cách đạo đức, đẹp ở tấm lòng vị tha. Cho nên người xưa nói: Cái nết đánh chết cái đẹp.

 

Người nam thì đơn giản hơn trong ăn mặc nhưng lại hay dính mắc vào thuốc lá, rượu bia, gái gú, hưởng thụ thức ăn các loài vật quá nhiều. Người uống rượu bia ăn các loài hải sản tươi sống nhiều nên chắc chắn sẽ thiếu lòng từ bi trong đối nhân xử thế, do đó sẽ gánh lấy hậu quả về sau như bệnh hoạn, mất trí nhớ, thần kinh rối loạn và bị nhân quả vay trả thù hằn không có ngày thôi dứt.

 

Con người chúng ta do chấp thân này là thật ngã, nên làm cái gì cũng để cho ta, vì ta từ đó mà đam mê say đắm tham lam muốn chiếm đoạt về cho mình. Chúng ta hãy thường xuyên quán sát sẽ thấy thân này vô thường bại hoại, nên ai cũng già, bệnh, chết nhờ vậy ta bớt tham đắm dính mắc mà dễ dàng tu hành.

 

Cho nên tu trong lúc tắm rữa, mặc quần áo rất quan trọng, chỉ có ta phải tự mình làm việc đó hằng ngày, nếu ta biết tỉnh giác trong từng, ý nghĩ hành động đó là ta đang tu.

 

Tu trong lúc xả chất cặn bả ra bên ngoài

 

Tu trong việc đi tiểu, đi đại cũng rất quan trọng trong đời sống vì nó gắn liền với chúng ta hằng ngày. Khi đi tiểu ta biết ta đang đi tiểu, nếu trong ngày ta đưa các thức uống vào quá nhiều cũng khổ, nhất là những tay bợm bia đã đưa vô thì phải xả ra, đó là lẽ đương nhiên. Khi tiểu ta hay nhớ nghĩ lung tung, tiểu trong vội vàng, không có ý thức. Khi tiểu ta biết mình đang tiểu, ta chỉ cần nhìn nước tiểu vàng hay trắng sẽ biết được sức khỏe mình ra sao. Nếu nước tiểu vàng quá thì trong người nóng, ta phải biết điều hoà bằng cách ăn uống hay thuốc bổ thận âm. Ngược lại, nếu thấy nước tiểu trắng thì biết người quá yếu, thận bị suy nên hay mắc tiểu đêm ta phải dùng thuốc bổ thận dương để điều trị. Thông qua đó ta sẽ biết cách điều hoà để cảm nhận được niềm vui trong cuộc sống.

 

Đi đại cũng vậy, nếu bị bón rặn không ra ta biết mình đang bị nóng gan hay bị trĩ, ta sẽ dùng thuốc trị hoặc ăn đồ mát vào, thì sẽ từ từ hồi phục trở lại. Đi phân đen hay xanh, chảy hay chìm xuống ta biết đường ruột yếu, thì phải dùng thức ăn nóng cho có tính cách Dương tính, đây cũng là biết tu trong lúc đi đại.

 

Mình bệnh mà không biết mình bệnh thì nguy cơ cao; ăn vô mà không thải ra chỉ trong vài ngày thì bụng sình chướng khó tiêu, người bức rức, nóng nảy, chộn rộn thật khổ tâm; nếu bị đi chảy nhiều quá thì coi chừng tiêu đời nhà ma.

 

Vậy trong lúc đi tiểu, đi đại mình có tu không? Có chứ, nếu không ngồi trong nhà cầu mình sẽ khốn khổ đủ điều, mùi cặn bả xả ra hôi hám vô cùng mà tâm cứ nghĩ tưởng lung tung. Do đó ta phải biết rõ ràng từng trạng thái của nó mà không bám dính vào chỗ nào, coi như ta đang tu trong lúc đi tiểu hay đi đại.

 

Thế nên, đã làm người tất nhiên vẫn còn nhiều khiếm khuyết, chưa có ai toàn hảo cả, chính vì vậy mà ta cần phải biết tu để chuyển hóa bớt những điều xấu dở của mình phát sinh từ thân miệng ý. Dức ác làm lành là điều mà ai cũng phải cố gắng tích cực, để giúp ta ngày càng sống tốt hơn. Không chịu tu hành là thiệt thòi cho chúng ta và làm ảnh hưởng tới mọi người xung quanh, cụ thể nhất là gia đình người thân.

Cho nên, nếu không đủ duyên xuất gia vào chùa để tu thì ta phải biết áp dụng tu trong mọi hoàn cảnh, dù bất cứ trường hợp nào chúng ta cũng phải quyết tâm kiên trì bền bỉ.

Nói tóm lại, người Phật tử chân chính phải biết ứng dụng tu trong mọi hoàn cảnh, bởi có năm việc mà ta phải làm hằng ngày không ai có thể thay thế cho ta được. Thứ nhất là thay mặc quần áo, thứ hai là ăn uống, thứ ba là tắm rữa, thứ tư là đi tiểu, và thứ năm là đi đại, cái gì biết để làm năm việc đó?

Cái biết này không hình tướng nhưng lúc nào cũng có trong ta, khi không suy nghĩ, nói năng, hành động nhưng ta vẫn biết, cái biết này nương nơi mắt thì thấy chỉ là thấy, nương nơi tai nghe chỉ là nghe, thế nên ta gọi là thấy nghe hay biết mà không dấy tâm động niệm.

Đây chính là mục đích Phật muốn chỉ cho mọi người đều phải lãnh hội chỗ này, thấy tức biết, biết tức tâm mà là tâm Phật sáng suốt. Việc chính yếu của mỗi hành giả, không phân biệt người xuất gia hay tại gia, ai lãnh hội được chỗ này thì, “dù cho gươm bén kề cổ, giống như chém gió xuân”. Bởi vì lúc này ta, người, chúng sinh và thọ giả đã không còn, đó là cốt tủy của Phật pháp, chỉ đơn giản vậy thôi mà có một số vị thiền sư phải mất đến 50 năm.

Chúng ta ngày hôm nay tuy gặp được Phật pháp chân chính, người tại gia với bộn bề công việc phải biết áp dụng tu tập trong năm điều kiện trên, vì nó gắn liền với ta hằng ngày, nếu không ta sẽ đánh mất chính mình mà sống trong đau khổ lầm mê.

Mục đích của việc tu là ta phải biết điều phục từ ý nghĩ lời nói, hành động trong mọi hoàn cảnh, để cho mình và người khác được an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ, với phương châm “tốt đạo đẹp đời”.

 

 

 

 

 

Đăng ký lấy RSS cho bình luận Bình luận (0 đã gửi)

tổng số: | đang hiển thị:

Gửi bình luận của bạn

  • Bold
  • Italic
  • Underline
  • Quote

Xin hãy nhập các ký tự bạn nhìn thấy ở ảnh sau:

BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)

Các bài mới :
Các bài viết khác :

Đánh giá bài viết này

0

Tags

Không có tags cho bài viết này

Đăng nhập