Đạo Phật Ngày Nay

Yên Tử, đôi nét phác họa

Trăm năm tích đức tu hành/Chưa về Yên Tử chưa thành quả tu. Cụ Cao Thị Nhụ, năm nay đã bước sang tuổi 84, lưng cụ còng rạp rồi và hẳn đôi chân không còn dẻo dai, khỏe khoắn nữa. Ấy vậy mà như có một sức mạnh kỳ lạ, cụ đã leo lên tận chùa Đồng trên đỉnh Yên Tử, nơi độ cao 1.068 m so với mặt nước biển để được bái tạ vị quân vương Trần Nhân Tông hiền tài đã có công lao to lớn đánh đuổi giặc Nguyên - Mông và sáng lập ra Thiền Phái Trúc Lâm - Trung tâm Phật giáo của quốc gia Đại Việt.

Sông kia còn dấu...

Trong tiết tháng Hai, chúng tôi về Yên Tử, thành phố Uông Bí (Quảng Ninh), lên đến đỉnh non thiêng nơi chùa Đồng tọa lạc mới cảm nhận thật rõ tài cao và đức độ của vua Trần Nhân Tông. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng “Khi đức vua được tinh anh của thánh nhân, đạo mạo thuần túy, nhan sắc như vàng, thể chất hoàn toàn, thần khí tươi sáng, gọi là Kim tiên đồng tử...”.

Trần Nhân Tông được vua cha truyền ngôi năm 24 tuổi. Đây là thời kỳ đế quốc Mông Cổ chiếm toàn cõi Trung Hoa lập ra triều Nguyên và âm mưu chiếm đóng tất cả các nước lân cận. Nước Đại Việt ta đang đứng trước nguy cơ bị xâm lược của nhà Nguyên. Tình hình đất nước lúc bấy giờ rất nguy cấp, vua Trần Nhân Tông đã mở hội nghị Bình Than phân công các tướng lĩnh, vương hầu đi đóng giữ những nơi hiểm yếu nhất của đất nước. Vua phong Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn làm Quốc Công Tiết Chế thống lĩnh thiên hạ chư quân sự. Cả đất nước sục sôi chuẩn bị, quân sỹ quyết không đội trời chung với quân thù. Dưới sự lãnh đạo của Trần Nhân Tông và Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, quân dân Đại Việt đã đưa kẻ thù vào thế bày sẵn.

Trận Bạch Đằng ngày 9-4-1288 là trận lớn nhất mang tính chất quyết chiến lược. Khi thuyền chiến của giặc bị vướng cọc, quân ta tiếp đến đánh cho giặc Nguyên chết không kể xiết, nước sông đỏ ngầu. Danh sỹ Trương Hán Siêu đã mô tả: “Vua Trần hai vị thánh quân/Sông kia còn dấu tẩy trần giáp binh/Ngày xưa gẫm cuộc thăng bình/Tại đâu đất hiểm, bởi mình đức cao”.

Đất nước sạch bóng quân thù, vua Trần Nhân Tông chú trọng ngay đến việc chiêu mộ dân khai khẩn ruộng hoang, làm thủy lợi, chia ruộng đất cho dân, khuyến khích chuyện học hành và thi cử. Là ông vua có tấm lòng nhân hậu, trọng dụng hiền tài và quan tâm đặc biệt đến cuộc sống của nhân dân. Vua thường vẫn đi thăm hỏi cuộc sống của nhân dân, nhất là dân nghèo. Vua đang ở địa vị cao sang sẵn sàng bỏ mọi quyền uy, vàng son gấm lụa tự nguyện dấn thân vào cuộc đời đơn bạc gió sương, nhường ngôi cho con để khoác áo tu hành và sáng lập ra Thiền Phái Trúc Lâm.


Du khách trên đỉnh non cao Yên Tử.


Chữ "đồng"...

Yên Tử có nhiều tên gọi như Tượng Sơn, Bạch Vân Sơn, Phù Vân Sơn, Linh Sơn. Danh sơn Yên Tử gắn liền với cuộc đời, sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông sau hai lần lãnh đạo quân dân quét sạch giặc Nguyên - Mông ra khỏi bờ cõi, chấn hưng đất nước Đại Việt rồi nhường ngôi cho con và xuất gia về Yên Tử tu hành, lấy pháp hiệu Trúc Lâm Đại Đầu Đà sáng lập ra Thiền Phái Trúc Lâm. Từ đó, Yên Tử trở thành trung tâm Phật giáo của Quốc gia Đại Việt. Với tinh thần nhập thế và yêu nước, giáo lý Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử trở thành nền tảng tư tưởng dựng nước và giữ nước thời Trần, ảnh hưởng sâu sắc đến phật giáo nước ta về sau này. Năm 1974, khu di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử được Nhà nước xếp hạng là một di tích đặc biệt quan trọng của quốc gia.

- Khu di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử trải dài gần 20 km thuộc địa bàn 2 xã Phương Đông và Thượng Yên Công, thành phố Uông Bí. Khu di tích có các chùa Đồng, chùa Hoa Yên, chùa Giải Oan, chùa Một Mái, chùa Cẩm Thực, chùa Bí Thượng, tháp Tổ, tháp Vọng Tiên Cung và chùa Vân Tiêu... nằm trong diện tích 2.686,5 ha rừng đặc dụng Yên Tử.

- Có nhiều ý kiến về nguồn gốc chùa Đồng trên đỉnh Yên Tử. Đa số ý kiến cho rằng vào thời Lê - Trịnh, một bà phi của chúa Trịnh đã làm công đức đúc chùa bằng đồng.

Mỗi độ xuân về, tăng ni, phật tử, tín đồ đạo hữu và du khách gần xa hành hương về Yên Tử lễ Phật, chiêm bái cảnh chùa và được đắm mình trước vẻ đẹp huyền bí của núi rừng mênh mang mây phủ. Cụ bà Cao Thị Nhụ, ở xã Hợp Đồng, huyện Chương Mỹ (Hà Nội) lưng đã còng rạp xuống đất mà đôi chân vẫn không biết mỏi trên ngồn ngộn dải đá đến chùa Đồng. Cụ bảo rằng, cả đời cụ chân lấm tay bùn đồng ruộng, ước ao một điều duy nhất được đến Yên Tử, lên chùa Đồng thắp một nén hương. Chùa Đồng tọa lạc trên đỉnh non thiêng Yên Tử, nơi có thiên nhiên bao la kỳ vĩ, 4 mùa mây phủ. Cụ Nhụ bảo rằng, chùa Đồng giá trị không chỉ ở chất liệu đồng mà bà hiểu chữ “đồng” trong quan niệm người Việt mình là đồng lòng, đồng nhất, đồng chí, đồng tâm hiệp lực.

Trong thời nay, chữ đồng là sức mạnh đại đoàn kết, toàn dân tộc để xây đắp quê hương, đất nước mình ngày càng giàu đẹp. Cụ dẫn chứng về chữ “đồng” rất cụ thể: Cháu xem, vua Trần Nhân Tông và Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã đồng lòng cùng quân dân đánh tan giặc Nguyên - Mông. Sự đồng lòng của toàn dân tộc cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đánh tan thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, non sông thu về một mối. Khi đất nước đổi mới, chỉ nói gọn trong làng quê nhà cụ thôi, nếu không có sự đồng lòng làm sao mà mở rộng Thủ đô to như thế được. Ngày đó, nhiều người trong làng không muốn “nhập” về Thủ đô. Cụ bảo với mọi người, “nhập” làng về Thủ đô, ta thành người Thủ đô, không “oai” quá còn gì. Thế thì phải phấn đấu, rèn luyện để xứng với người Hà Nội mà cái tinh túy đã được khắc họa như thế này “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài/Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”.

Trên đường đến chùa Đồng, tôi gặp bà Vi Thị Khay, dân tộc Thái, ở thị trấn Con Cuông, huyện Con Cuông (Nghệ An), được nghe bà nói về “chữ đồng” thật sâu sắc. Bà bảo, trong gia đình không có chữ đồng khó mà thuận hòa được. Vợ đồng lòng với chồng, con cái, anh em dòng họ đồng lòng với nhau để mà làm ăn, xua đi cái đói, cái nghèo. Con cái bà hễ có chuyện gì mà cãi vã nhau thì bố mẹ phải là nhịp cầu nối gắn kết giữa chúng. Con cái mỗi đứa một mặt, làm gì cho được. Năm nào, bà cùng con cháu lập được hẳn một đoàn về bái tạ chùa Đồng với khát mong “Lên chùa chống gậy Trúc Lâm/Cầu đạo hiếu/Cầu đức tài bay tận cháu con”.

Cũng trên đỉnh non cao Yên Tử, tôi lân la hỏi chuyện những người bán hàng rong càng cảm nhận rõ hơn ý nghĩa sâu xa của ngôi chùa Đồng. Chị Bàn Thu Hiền, dân tộc Dao, ở thôn Nam Mẫu 1, xã Thượng Yên Công (thành phố Uông Bí) nói rằng, chị lấy chồng sớm, về nhà chồng không phải làm gì ngoài việc... đẻ con. Sức trẻ mà không được làm việc thấy cuộc đời thật buồn tẻ và mông lung. Có lần chị tỉ tê với chồng về việc đi làm, anh đã nổi cáu “Lấy cô về là để đẻ con, mình tôi làm là đủ...”. Chị Hiền làm dịu cơn bực bội của chồng bằng cách... im lặng và khóc. Lúc ấy mà mình thêm vào vài câu là vợ chồng cãi nhau, chuyện nhỏ sinh chuyện to, thế là mâu thuẫn vợ chồng - Chị Hiền tâm sự. Thế rồi, chồng chị dịu giọng và bảo “Ừ, để xem cái việc gì nó hợp đã...”. Chị bảo, em làm việc gì cũng được, em không sợ vất vả, không ngại khó ngại khổ đâu. Vợ chồng cùng nhau làm mới có thu nhập thêm, xây cái nhà to chứ. Hôm sau chị lên chùa Đồng thắp một nén nhang cầu cho sự đồng thuận vợ chồng mãi mãi. Từ hôm đó, chị quyết định “hành nghề” bán hàng rong nào mía, nào nước ngọt... Mới đầu cũng thấy ngại, chồng chị không thích lắm đâu nhưng trình độ chả có, biết làm gì. Bán hàng rong cũng là một việc tốt đấy chứ, có thu nhập mỗi tháng vài ba triệu đồng hẳn hoi, thêm thắt cùng chồng làm được cái nhà tử tế hơn. Chồng chị bảo, “Mẹ nó thế mà khá, cũng biết kiếm tiền đấy nhỉ”. Chị Hiền cười và bảo, làm việc gì em thấy cũng phải có chữ “đồng”, nếu không “tan cửa nát nhà”.

Qua những câu chuyện về chữ “đồng”, mới thấy sự sâu sắc của người xưa khi chọn đỉnh non thiêng Yên Tử để xây dựng chùa Đồng. Đó không chỉ là sự vững chãi, trường tồn của chất liệu mà đó còn là sự gửi gắm chữ “đồng” của cha ông ta với thế hệ con cháu hôm nay và mai sau.

Nguồn: Tuyên Quang online

Bình luận