Đạo Phật Ngày Nay

Trung Quốc: Trưởng lão Hòa thượng Căn Thông tân Viên tịch

Chủ nhiệm Ủy Ban Tôn giáo tỉnh Sơn Tây, Chủ tịch Hiệp hội Phật giáo Sơn Tây, Tổng hội Trưởng Hội Từ Thiện Công đức Ngũ Đài Sơn, tỉnh Sơn Tây, Phương trượng Cổ sát Huyền Trung Tự, tân viên tịchvào vào hôm thứ Hai, 02/11/2015 (21/09/Ất Mùi. Hưởng thọ 87 Xuân Thu, Tăng tịch 70 Hạ, Giới tịch 68 Đông.

Phật giáo Sơn Tây oline đăng tin ngày 02/11/2015, Trưởng lão Hòa thượng Căn Thông, Phó Hội trưởng Hiệp hội kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Phật giáo tỉnh Sơn Tây và Thường vụ Lý Sự Hiệp hội Phật giáo Trung Quốc, Phó Chủ Nhiệm Ủy Ban Tôn giáo Dân Tộc tỉnh Sơn Tây liên Khóa 5, Khóa 6, khóa 7, Khóa 8, Khóa 9, Khóa 10.

Chủ nhiệm Ủy Ban Tôn giáo tỉnh Sơn Tây, Chủ tịch Hiệp hội Phật giáo Sơn Tây, Tổng hội Trưởng Hội Từ Thiện Công đức Ngũ Đài Sơn, tỉnh Sơn Tây, Phương trượng Cổ sát Huyền Trung Tự, tân viên tịchvào vào hôm thứ Hai, 02/11/2015 (21/09/Ất Mùi. Hưởng thọ 87 Xuân Thu, Tăng tịch 70 Hạ, Giới tịch 68 Đông.

Thuở sinh tiền Ngài là bậc Mô phạm trong chốn Tòng lâm, Ngài đề xuất: “Tri ân báo ân, Phật giáo nhân gian” và tiên phong trong gương mẫu trong việc gìn giữ và phát huy truyền thống tốt đẹp của cộng đồng Phật giáo Sơn Tây. 

Ngưỡng nguyện Trưởng lão Hòa thượng thừa nguyện lực tái lai Ta bà tế chúng độ sinh.

Tiểu sử

Trưởng lão Hòa thượng Căn Thông

 (1928-2015)

Trưởng lão Hòa thượng tục danh Chu Văn Hào (周文豪), Pháp danh Căn Thông (根通), sinh ngày 14/07/1928 (Năm Bính Thìn, niên hiệu Dân Quốc năm thứ 17) tại khu Triều Dương, thành phố Sán Đầu, tỉnh Quảng Đông,Trung Quốc.

Năm 1945 (Năm Ất Dậu, niên hiệu Dân Quốc thứ 34) Ngài đến Thiền đường Phổ tế, Phổ Đà Sơn Bạn Sơn Thiền viện (普陀山伴山禅院), đảnh lễ  Đại lão Thiền sư Liễu Thanh cầu thế độ xuất gia.

Tháng 09 năm 1946 (Năm Bính Tuất, niên hiệu Dân Quốc thứ 35), Ngài  đảnh lễ Đại lão Thiền sư Hư Vân cầu Thụ giới Sadi.

Năm 1947, (Năm Đinh Hợi (1947), niên hiệu Dân Quốc thứ 36) Ngài đảnh lễ cầu thụ Cụ túc giới với Đại lão Pháp sư Trí Thành, Trụ trì Khai Nguyên Tự.

Năm 1953, tại Thượng Hải, Ngài cùng huynh đệ tùy hỷ pháp môn tu tập  tại “Thường Lạc Tinh đài” và đảm nhậm chức Giám Viện.

Năm 1955, vì sự thiết tha cầu học, Ngài đến Bích Sơn Tự, Ngũ Đài Sơn học Kinh Hoa Nghiêm với Lão Pháp Sư Hoa Sơn, học Luật Tỳ Kheo với Lão Luật sư Năng Hải và các Bộ Kinh, Luận khác, kể từ đó, Ngài luôn An cư Kiết Hạ tại Sơn Tây.

Năm 1957, Ngài đảm nhiệm chức vụ Thường vụ Lý Sự Hiệp hội Phật giáo Ngũ Đài Sơn, và được bầu làm Ủy viên Chức vụ Ủy viên, Ủy ban Chính hiệp Ngũ Đài Sơn, Đại biểu Liên ĐoànThanh niên tỉnh và tham dự các Đại hội Thanh niên toàn quốc.

Năm 1958, Ngài được trúng tuyển và được đào tạo tại Học viện Phật giáo Trung Quốc, sau khi tốt nghiệp, Ngài đảm nhiệm chức Giám viện Bích Sơn Tự, Ngũ Đài Sơn, kiêm Giám đốc Điều hành Hiệp hội Phật giáo Ngũ Đài Sơn.

Thịnh suy hưng phế là một quy luật tất yếu như một vòng tuần hoàn khép kín. Đại cách mạng văn hóa – 文化大革命) được Mao Trạch Đông khởi xướng và lãnh đạo từ ngày 16 tháng 05 năm 1966, là một giai đoạn hỗn loạn toàn bộ xã hội Trung Quốc diễn ra trong 10 năm từ năm 1966-1976, gây tác động rộng lớn và sâu sắc lên mọi mặt của cuộc sống Chính trị, Văn hóa, Xã hội Trung Quốc.

Ngoài ra, cuộc Cách mạng này đã làm thay đổi quan niệm Xã hội, Chính trị và Đạo đức của quốc gia này một cách sâu sắc và toàn diện. Tệ hại hơn, trong suốt cuộc Cách mạng này, tất cả những gì liên quan đến các Tôn giáo đều bị Hồng vệ binh tàn phá thẳng tay. Nhiều công trình Tôn giáo như Cơ sở Tự viện Phật giáo, Nhà thờ, Tu viện của các tôn giáo khác và cả các nghĩa trang đều bị đóng cửa, bị cướp phá hoặc bị đập bỏ. Trong đó, Phật giáo Sơn Tây cũng chung số phận phải chịu cảnh tàn phá của những người Cộng sản vô thần cực đoan tàn ác.

Điều khủng khiếp nhất của chiến dịch là việc sử dụng bừa bãi hình thức tra tấn, giết chóc những người vô tội, trong đó có các bậc Thánh tăng Hiền triết Phật giáo, dẫn đến các vụ tự tử do nạn nhân không chịu được tra tấn và nhục nhã. Riêng Phật giáo Trung Quốc trải qua 10 năm đại nạn “Đại cách mạng văn hóa” (文化大革命) Phật giáo đứng mũi chịu sào, Cơ sở Tự viện bị chiếm, Phật tượng bị đập phá, tăng ni bị trục xuất khỏi chùa.

Những thập niên 50, Mao Trạch Đông, lãnh đạo Cộng sản Trung Quốc xua quân vào Tây Tạng giết sư, đốt chùa và gây ra hằng hà sa số tội ác với một dân tộc Tây Tạng hiền lành chịu đựng.

Thật khủng khiếp cho những người Cộng sản vô thần cực đoan, đã gây ra vô số tội ác với dân tộc đất nước Trung Quốc và các nước lân bang.

Vào thập niên 80, nhà cầm quyền Cộng sản Trung Quốc thực hiện Chính sách cải cách đổi mới, bắt đầu toàn diện quán triệt thực hiện Chính sách Tự do Tín ngưỡng Tôn giáo, Cơ sở Tự viện Phật giáo lần lượt khôi phục sinh hoạt, Tăng ni xuất gia càng ngày càng đông, nhưng Tăng tài của Phật giáo thì lại quá giới  hạn, không đủ nhân lực kế tục sự nghiệp hoằng dương Chính pháp, tiếp dẫn hậu lai.

Năm 1981, Đại hội Đại biểu Tỉnh Sơn Tây, Ngài được Đại hội suy tôn chức vụ Phó Hội trưởng Hiệp hội kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Phật giáo tỉnh Sơn Tây và Thường vụ Lý Sự Hiệp hội Phật giáo Trung Quốc, Phó Chủ Nhiệm Ủy Ban Tôn giáo Dân Tộc tỉnh Sơn Tây liên Khóa 5, Khóa 6, khóa 7, Khóa 8, Khóa 9, Khóa 10.

Trong những năm gần đây, Ngài tiên phong trong việc tích cực phát động phong trào cạnh tranh Tôn giáo tích cực, góp phần xây dựng đoàn kết toàn dân, nêu gương sáng Tốt Đạo-Đẹp Đời.

Ngài luôn được sự kính trọng và biểu dương công đức của Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc Trung Ương, và được Ban Tôn Giáo Chính Phủ Trung Quốc tán thán ca ngợi.

Ngài đề xướng “Tri ân Báo ân, Phật giáo Nhân gian”, vận động và thúc đẩy cộng đồng Phật giáo Sơn Tây để gìn giữ và phát huy các giá trị truyền thống Đạo đức Tâm linh Phật giáo, đoàn kết, thân thiện, vô ngã vị tha, một lòng vì sự cống hiến để phục vị cộng đồng, vì lợi ích nhân dân, chăm sóc và tham mưu hỗ trợ các tổ chức Phúc lợi xã hội, các tổ chức Văn hóa xã hội hữu ích.

Sự ảnh hưởng của cá nhân Ngài, chẳng những có tác động ảnh hưởng cả cộng đồng Phật giáo Sơn Tây, trùm khắp Trung Quốc mà còn lan tỏa đến cộng đồng Phật giáo ngoại quốc, các nguồn tài chính được ủng hộ, Ngài xây dựng các Đề án cho sự phát triển Văn hóa xã hội địa phương, Chương trình xóa đói giảm nghèo, góp phần sự nghiệp an sinh xã hội.

 Trên cơ sở đó, Ngài đã thực hiện hàng loạt  các hoạt động giao lưu văn hóa Phật giáo Trung Quốc với các nước khu vực Phật giáo Nhật Bản, Singapore, Malaysia và Hồng Kông và Đài Loan. . .

Sự nghiệp hoằng pháp lợi tha của Ngài, từ lúc trưởng thành Giới thân Huệ mạng cho đến khi trút hơi thở về An dưỡng quốc, là một tấm gương ngời sáng cho hậu thế noi theo.

Duyên Ta bà quả mãn, Hóa duyên ký tất, Ngài thị hiện chút bệnh duyên và an tường xã báo thân vào hôm thứ Hai, 02/11/2015 (21/09/Ất Mùi. Hưởng thọ 87 Xuân Thu, Tăng tịch 70 Hạ, Giới tịch 68 Đông.

- Pháp thân của Ngài đã lưu lại cho hậu thế gồm những tác phẩm trước tác biên soạn:

- Trung Quốc Phật Giáo Doanh Liên Tinh tuyển (中國佛 教楹聯精選)

- Phật Giáo Tịnh Độ tông dữ Saơn Tây Huyền Trung Tự (佛教淨土宗與山西 玄中寺)

- Trung Quốc Tịnh Độ tông Thông sử (中國 淨土宗通史)

- Đàm Loan, Đạo Xước Đại sư truyện (曇鸞道綽大師傳)

- Phật Giáo Thánh Địa Ngũ Đài sơn (佛教聖地五台山)

- Tịnh Độ Cổ sát Huyền Trung Tự (淨土古剎玄中寺)

- Và một số băng đĩa Văn hóa Phật giáo VCD 

____ Thích Vân Phong ____

(Nguồn: Phật giáo Sơn Tây oline)

Trung Quốc: Trưởng lão Hòa thượng Căn Thông tân Viên tịch
Bình luận